Chương 9: Phụ tử tương tàn (phần 1)

Cha con xa cách bao ngày

Tưởng rằng gặp lại sum vầy hỏi han

Nào ngờ chưa hợp đã tan

Chữ nhân, chữ nghĩa sao đành vứt đi!

Mộc Châu, tháng bảy năm Thiên Phúc thứ bảy (986).

Trời bất chợt đổ mưa, sụt sùi, rả rích. Những giọt mưa thi nhau đập rào rào lên mái ngói trang viện. Thấm thoắt, Như Ý đã ở Mộc Hương sơn trang được hai năm. Cuộc sống cứ thế bình lặng trôi qua, Ngô Dư cũng chẳng nghe thấy tin tức gì từ Linh Cung kể từ lần chàng trúng phải Hàn Độc Chỉ và Hỏa Công chưởng. Không như dự đoán của chàng, Đào Khanh đã không đến Mộc Hương sơn trang tính sổ, vì thế Như Ý vẫn chưa gặp được cha. Tuy vậy, Như Ý không lấy đó làm buồn lòng, vẫn ngày ngày vui đùa, chăm chỉ luyện Kim Yên Trận như lời Đinh Tứ Nương đã dặn dò. Lúc mới đến sơn trang, Như Ý chỉ mới năm tuổi, Ngô Dư thấy nó tư chất thông minh, lại kiên trì chịu khó, đã đem Mộc Hương quyền và Mộc Hương kiếm truyền thụ cho. Sau hai năm, quyền pháp và kiếm pháp của Như Ý tiến bộ rất nhanh. Nếu xét về nội lực, Như Ý vẫn chưa sánh bằng chị em Vân Hương – Tòng Phương, nhưng xét về kĩ thuật và sức sáng tạo, thì dường như nó có nhỉnh hơn Tòng Phương và chỉ kém Vân Hương một chút. Hai chị em Vân Hương – Tòng Phương đã luyện quyền pháp và kiếm pháp hơn tám năm, Như Ý chỉ cần hai năm, tuổi tác lại còn quá nhỏ, đã có thể đuổi kịp. Ngô Dư thoạt đầu không để tâm lắm, vì trước đây mẹ của Như Ý là Mạc Thị Hậu, vốn nổi tiếng thông tuệ khác thường, Chàng chỉ cho rằng Như Ý giống mẹ nên ngộ tính cao. Thế nhưng sau một năm, trong một lần chị em Vân Hương – Tòng Phương đang luyện tập, Như Ý đứng ngoài quan sát bỗng lên tiếng chỉ điểm cho Tòng Phương, lại có thể đoán chính xác chiêu thức mà Vân Hương mới vừa mới nghĩ ra, từ đó Ngô Dư mới dần để tâm đến tiến bộ võ công của Như Ý, càng nhận ra nó quả là một thần đồng hiếm có. 

Như Ý từ ngày học võ công Ngô gia thì không giữ cách xưng hô cũ nữa, nó gọi Ngô Dư là sư phụ, gọi vợ chàng là cô cô theo kiểu Thạch Hà phái. Ngô Dư thoạt đầu không đồng ý, nghĩ Đào Khanh sẽ không vui khi biết con gái nhận chàng làm sư phụ, nhưng Như Ý một mực giữ đúng khuôn phép, mãi một thời gian sau, Ngô Dư và Ý Phương cũng quen tai, không nhắc nhở gì nữa.

Mưa rơi được một lúc thì tạnh, song lát sau lại tiếp tục rơi. Như Ý ngồi trên lan can, phóng tầm mắt ra vườn Mộc Hương mờ nhạt dưới màn mưa lất phất, bên cạnh nó là Ý Phương bồng theo đứa con trai nhỏ một tuổi của nàng và Ngô Dư, cũng yên lặng tận hưởng hương đất hòa quyện vào hương hoa Mộc Hương dưới cơn mưa đầu mùa thu. Trông Như Ý hôm nay có vẻ trầm mặc khác thường, không tíu tít như mọi khi mà chỉ đơn thuần ngồi bắt chéo chân trên lan can, ngây ngô nhìn vào màn mưa, Ý Phương bèn lên tiếng hỏi:

  • Như Ý, con sao vậy?

Như Ý ngoảnh đầu nhìn Ý Phương, đáp:

  • Trời mưa rồi! Con nhớ Bính Tam Nương quá!

Ý Phương nheo mắt tỏ vẻ thắc mắc:

  • Tại sao trời mưa thì lại nhớ Bính Tam Nương?

Như Ý đáp:

  • Vì Bính cô cô từng dạy con một bài đồng dao về các loại mưa! Bài đồng dao có sáu câu cả thảy!

Nói rồi Như Ý nhảy xuống đất, đến cạnh bên Ý Phương, đưa tay nựng những ngón chân nhỏ xíu của đứa trẻ nàng đang bồng, thích thú nói:

  • Để con đọc cho em Bình nghe nhé!

Ý Phương thấy Như Ý định đọc đồng dao cho đứa nhỏ còn chưa hiểu chuyện nghe, liền bật cười khúc khích. Như Ý cất giọng trong trẻo, hồn nhiên đọc:

  • Tháng giêng là tháng mưa xuân

    Tháng hai mưa bụi dần dần mưa ra

         Tháng ba mưa nụ mưa hoa

      Tháng tư hư đất biết là đâu hơn

      Tháng năm, tháng sáu mưa cơn

  Bước sang tháng bảy rập rờn mưa ngâu. (1)

Đứa bé một tuổi thấy Như Ý vừa đọc vừa nhìn mình cười thì thích lắm, nó cựa mình rồi cũng phát ra những tiếng khúc khích lạ tai. Ý Phương mỉm cười nói:

  • Vậy thì mưa này gọi là mưa ngâu! Bây giờ đã là tháng bảy rồi!

Như Ý lại chau mày, khẽ lẩm bẩm:

  • Nhưng tại sao gọi là mưa ngâu? Bính cô cô chưa giải thích cho con!_ nó nhìn Ý Phương, lay lay tà áo của nàng, nói tiếp_Cô cô có biết tại sao không?

Ý Phương chau mày, băn khoăn suy nghĩ; nàng là con gái miền núi, những bài đồng dao của trẻ đồng bằng chưa từng nghe qua, cũng không hiểu tại sao lại gọi là mưa ngâu. Ý Phương khẽ lắc đầu, toan nhận mình không biết thì bất chợt từ phía sau giọng Ngô Dư cất lên. Chàng vừa đi đến gần, vừa ngâm một bài thơ:

  • Điều điều Khiên Ngưu tinh, kiểu kiểu Hà Hán nữ.

Tiêm tiêm trạc tổ thủ, trát trát lộng ky trữ.

Chung nhật bất thành chương, khấp thế linh như vũ.

Hà Hán thanh thả thiển, tương khứ phục ki hứa ?

Doanh doanh nhất thủy gian, mạch mạch bất đắc ngữ.

(Xa xa kìa sao Ngưu, sáng sáng Ngân Hà nữ.

Nhỏ nhỏ tay trắng ngần, rì rào khung cửi gỗ.

Trọn ngày không thành lời, khóc nghẹn lệ như mưa.

Ngân Hà xanh lại nông, ngăn trở xa thế hử ?

Nhởn nhơ một dòng nước, cách biệt không ra lời.)

Bài thơ ấy là một trong mười chín bài cổ thi vô danh được lưu truyền ở Bắc quốc (2), khiến Ý Phương và Như Ý nghe xong cùng ngẩn ngơ. Tuy vậy, nhờ vào câu “khấp thế linh như vũ”, cả hai đều mơ hồ hiểu ra câu thơ ý muốn nói mưa ngâu tháng bảy rả rích, sụt sùi như ai đó đang khóc. Đợi Ngô Dư đến bên cạnh, Ý Phương nhẹ nhàng hỏi:

  • Bài thơ ấy nghe sao não nề quá! Ý tứ sâu xa bên trong thiếp vẫn chưa hiểu, chỉ thấy trong câu chữ có dư vị đắng cay ai oán của chia ly.

Như Ý cũng tròn mắt nhìn Ngô Dư tỏ vẻ ngạc nhiên chờ đợi. Ngô Dư hắng giọng cười, hỏi:

  • Chẳng phải hai người đang thắc mắc chữ “mưa ngâu” từ đâu mà ra sao?

Như Ý đưa tay lên tóc gãi gãi mấy cái rồi ngây ngô nói:

  • Con thấy trong bài thơ ấy vừa có mưa, có sông, lại vừa có cả tinh tú, loạn cả lên! Có thấy chữ nào nhắc đến mưa ngâu đâu!

Ngô Dư nghe Như Ý nói thì không nén nổi phì cười. Ý Phương đứng bên cạnh vội giận hờn thúc giục:

  • Chàng sao chỉ nói đến đó? Thật làm cho người ta phải ấm ức mà!

Ngô Dư cười với vợ rồi đưa tay bồng đứa bé từ tay nàng, chậm rãi nói, âm giọng hòa vào tiếng mưa rơi tí tách:

  • Để ta kể cho hai người nghe một truyền thuyết. Ngày xưa trên thiên đình có một vị thần chuyên lo việc chăn trâu, gọi là Ngưu Lang. Chàng say đắm một tiên nữ chuyên dệt vải là Chức Nữ đến độ bỏ bê việc chăn trâu, để trâu xông thẳng vào điện Ngọc Hư. Chức Nữ cũng vì si mê tiếng tiêu của Ngưu Lang mà trễ nải việc dệt vải. Ngọc Hoàng biết chuyệt, nổi trận lôi đình, đã chia cắt Ngưu Lang và Chức Nữ, để họ ở bên hai bờ sông Ngân, mãi mãi không được gặp nhau. Thế nhưng, loài quạ dưới trần gian vì cảm động trước chuyện tình của họ nên mỗi năm một lần vào ngày mùng bảy tháng bảy lại bay lên sông Ngân bắc cầu cho họ gặp nhau. Những khi tương phùng, Ngưu Lang Chức Nữ tâm sự mọi nỗi niềm nhung nhớ trong suốt một năm, lại vì sắp tới phải tạm chia tay nhau một năm nữa mới được gặp lại, nên đã xúc động sụt sùi khóc. Vì thế vào tháng bảy, những cơn mưa thường rả rích nhưng không liên tục, lúc tạnh lúc rơi, ấy chính là nước mắt của Ngưu Lang và Chức Nữ. Chữ ngâu là đọc trại từ chữ Ngưu trong từ “Ngưu Lang”. (3)

Như Ý nghe xong thì lấy làm không vui, phụng phịu nói:

  • Chỉ có một năm một lần thôi sao? Họ thật đáng thương!

Ý Phương xoa đầu Như Ý tỏ vẻ an ủi, lòng hốt nhiên lại thấy trăn trở, mới thầm nghĩ: “Cuộc sống của mình bây giờ hóa ra chẳng hạnh phúc hơn cả thần tiên trên trời sao? Làm thần tiên như Ngưu Lang Chức Nữ, yêu nhau mà không được ở bên nhau, phải chịu cảnh chia li sầu thảm, thật bất hạnh! Vừa gặp nhau rồi lại phải chia tay, một năm dài chỉ được tương phùng một lần! Ông trời có quá nhẫn tâm không?”.

Ngô Dư thấy sắc mặt vợ bỗng dưng có vài phần bất nhẫn thì đoán ra ngay tâm sự của nàng, bèn nhích tay đến gần nắm chặt lấy tay nàng, cánh tay còn lại ôm sát đứa trẻ vào lòng, cứ thế bình thản nhìn vào màn mưa, bao nhiêu kỉ niệm ngọt ngào suốt hai năm qua lại ùa về.

Mùa xuân năm ngoái, Ngô Dư và Ý Phương nên vợ nên chồng trong sự hân hoan của cả sơn trang. Hôn lễ giản dị, lại phải hạn chế khách mời vì sợ thân phận của Ý Phương bị bại lộ, thế nhưng vẫn rất ấm cúng thân tình. Từ ngày thành gia lập thất, Ngô Dư vui vẻ hẳn lên, các đệ tử, thuộc hạ của chàng ai ai cũng đều thầm cảm tạ trời đất đã cho chàng gặp được Ý Phương. Còn Ý Phương, từ ngày theo chồng, trở thành bà chủ Mộc Hương trang, mọi việc trong trang viện đều do nàng quán xuyến. Nàng đối đãi với thuộc hạ rất ân cần chu đáo, sấp nhỏ thì yêu thương, người già thì kính trọng, ai ai cũng hết mực yêu quý nàng. Cuộc sống ở trang viện cứ yên ả trôi qua, đến mùa đông năm ấy, Ý Phương hạ sinh một bé trai kháu khỉnh có khuôn mặt đẹp như ngọc, cả sơn trang lại được dịp rộn ràng. Ngô Dư vì thương vợ, đã để nàng đặt tên cho con. Ý Phương mong muốn con mình lớn lên sẽ được sống một đời an bình hạnh phúc, lại cũng vì thương nhớ anh trai bạc mệnh, vì thế mà gọi luôn đứa nhỏ là Bình. Từ khi có Ngô Bình, Như Ý có bạn mới. Nó suốt ngày tíu ta tíu tít với đứa nhỏ, đùa giỡn đủ trò. Ngô Bình tuy còn nhỏ nhưng cũng rất thích Như Ý, mỗi khi Như Ý vào chơi, nó lại bật cười khanh khách, nghe rất vui tai.

Ấy thế mà đã hai năm rồi! Ngô Dư tưởng như mọi chuyện chỉ mới vừa xảy ra ngày hôm qua. Khoảng thời gian êm đềm ngọt ngào ấy vẫn đang tiếp diễn. Chàng cúi nhìn đứa con nhỏ trên tay mình, lòng ngập tràn hạnh phúc.

Đang khi mơ màng, giọng Tòng Phương bất chợt vang lên, khiến chàng giật mình quay về với hiện tại.

  • Trang chủ! Bọn thuộc hạ phát hiện một nhóm khoảng hai chục người, trông có vẻ là người đồng bằng, đang luẩn quẩn ở khu vực sông Đà. Hành tung bọn họ rất khả nghi, đã ba ngày nay không hề di chuyển mà cứ hạ trại bên bờ sông.

Ngô Dư nghe đến hai chữ “đồng bằng” liền nghĩ ngay đến Đào Khanh. Đã nhiều năm rồi, Đào cung chủ không đến Mộc Hương sơn trang gây sự. Từ khi Sửu cung Hàm phu nhân tự vẫn đến giờ, cứ hai năm Đào Khanh lại tìm đến sơn trang một lần để báo thù. Hắn mỗi lần thất bại trở về đều dốc công học thêm những chiêu thức mới, cốt để đánh bại Ngô Dư, rửa mối hận trong lòng.

Suốt bảy năm qua, hắn đã tìm đến Mộc Hương sơn trang hai lần. Lần đầu tiên lên Mộc Châu trả thù là khi Lý Thị mới mất, lúc đó Đào Khanh đã có sáu phu nhân là Tí cung Lý Thị Hàm, Sửu cung Nguyễn Thị Yến, Tị cung Văn Thị Sa, hai chị em Mẹo cung Trần Thị Dương,  Hợi cung Trần Thị Đình và Mùi cung. Lần đầu trả thù, hắn chỉ đi cùng bốn phu nhân, vị phu nhân thứ sáu là Mùi cung vốn rất ít xuất hiện trên giang hồ nên không ai rõ tên họ của nàng là gì. Còn hai chị em Mẹo Hợi cung là hai tiểu thư của nhà họ Trần nổi tiếng vùng châu Hoan (4);  Tị cung Văn Thị Sa lại là người Chiêm Thành, là đệ tử của một bang hội lớn ở thành bang Amaravati (5) – nơi đã sản sinh ra môn nội công lợi hại Hỏa Công Tâm Pháp. Sửu cung Nguyễn Thị Yến lai lịch cũng không rõ ràng, nhưng có thể xem là người lợi hại nhất trong số các phu nhân. Lần đó giao đấu ở Mộc Hương trang, các phu nhân chỉ đứng ngoài quan sát, tuyệt nhiên không hề động thủ, đến khi Đào Khanh bị đả thương, Nguyễn Thị Yến có lo lắng xuất chiêu, song liền bị Đào Khanh lập tức ngăn lại. Tuy vậy, chỉ với vài chiêu kiếm pháp quái lạ của mình, Nguyễn Thị Yến đã khiến Ngô Dư phải thầm giật mình kinh ngạc. Về sau, không hiểu sao Yến phu nhân bặt tăm bặt tích, giang hồ đồn là do Đào Khanh lấy quá nhiều vợ, khiến Nguyễn Thị bất mãn bỏ đi. Hai năm sau, Đào Khanh lại đến Mộc Hương trang, khi đó hắn đã có thêm bốn phu nhân nữa, gồm Dần cung Lê Thị Ngọc – đệ tử Tản Viên Sơn phái, Ngọ cung Bùi Thị Đào – đệ tử Sơn Tây võ phái, Thân cung Mạc Thị Hậu của Thạch Hà nữ phái và Dậu cung Vũ Thị Bích vẫn chưa rõ lai lịch. Lần thứ hai lên Mộc Châu, Đào Khanh đem theo bảy phu nhân, Mùi cung vẫn không xuất hiện. Lần đó, bảy phu nhân cũng chỉ đơn thuần đứng quan sát, không ai xuất chiêu, đến khi Đào Khanh bị đánh bại thì lại chạy ra đỡ chồng quay về. Thân thủ, võ công của các phu nhân vì vậy mà Ngô Dư chưa thể đoán định được. Sau lần đó, Thân cung Mạc Thị Hậu lại cũng không rõ nguyên nhân mà bồng đứa con gái nhỏ là Đào Như Ý chạy về Thạch Hà. Sau khi Mạc Thị rời khỏi, Đào Khanh cưới thêm hai phu nhân là Tuất cung và Thìn cung, rồi hắn không kết hôn nữa. Hai phu nhân đó cũng như Mùi cung, đều không hành tẩu giang hồ nên không rõ tên tuổi lai lịch, đến khi Tuất cung xuất hiện ở Mộc Châu hai năm trước, Ngô Dư mới sửng sốt nhận ra nàng ta từng là chị dâu của Đào Khanh, chẳng hiểu sao lại trở thành vợ hắn. Đào Khanh nổi tiếng đào hoa bậc nhất, mấy cô vợ của hắn ai cũng biết võ công, vài người thuộc hàng cao thủ nổi danh của một số môn phái. Tuy vậy, ai mà biết được Đào Khanh có thực tâm yêu thương các nàng hay không, chỉ biết một phần nguyên nhân hắn cưới nhiều vợ là để thông qua các nàng, học hỏi võ công của khắp các môn phái.

Hai năm trước, Ngô Dư can thiệp vào chuyện của Linh cung khiến chính mình gặp rắc rối, tưởng đã táng mạng dưới tay Văn Thị Sa, may nhờ Tuất cung Đàm Túy Dung cố ý tương trợ nên mới giữ được tính mạng. Từ đó đến nay, Ngô Dư không nghe thấy bất cứ tin tức nào về Đào Khanh nữa. Chàng nhiều lần lấy làm ngạc nhiên, tại sao đã ba năm rồi mà hắn không quay lại, nay nghe Tòng Phương bẩm báo về một nhóm người từ đồng bằng lên, hành tung khả nghi, chàng không thể không nghĩ đến Linh Cung Thập Nhị Giáp, bèn buột miệng hỏi:

  • Là người của Linh cung?

Tòng Phương vội lắc đầu, đáp:

  • E rằng không phải! Bọn họ ăn mặc khác hẳn kiểu cách của Linh cung.

Ngô Dư chau mày suy nghĩ. Đã nhiều năm rồi chàng không xuống đồng bằng, chỉ đi lại trong vùng Mộc Châu – Lâm Tây. Kẻ thù oán chàng tính ra chỉ có một mình Đào Khanh. Đám người hành tung kỳ bí kia bỗng nhiên kéo đến đóng trại ở gần sơn trang đã ba ngày, nếu bọn họ là khách đi đường thì cớ sao không đi tiếp mà cứ dừng lại một chỗ, còn nếu bọn họ thực là muốn đến Mộc Hương sơn trang thì tại sao không cứ đến thẳng đây? Chàng suy đoán một lúc, chợt nghĩ có thể bọn họ đang chờ đồng bọn nên chưa vội đi, bèn nói với Tòng Phương:

  • Họ không vội, ta cũng không vội. Biết đâu lại chỉ là khách qua đường. Cậu cứ theo dõi hành tung của họ. Nếu thấy có gì khác thường thì quay về báo ngay cho ta. Thế nhưng cũng cần đề phòng, cậu nhắc nhở mọi người ở võ quán phải cẩn thận, đừng gây phiền nhiễu đến người ta.

Tòng Phương cúi đầu vâng lệnh rồi rời khỏi.

Đúng như dự đoán của Ngô Dư, nhóm người kia hạ trại bên bờ sông Đà được năm ngày thì có thêm một nhóm người Khau Phạ chừng hai chục tên kéo đến nhập bọn. Hai năm trước, sau khi đuổi bắt Nhật Lão không thành, người Khau Phạ đã quay về Hoàng Liên Sơn, giờ lại cùng người đồng bằng kéo đến Mộc Châu, chẳng rõ đang toan tính điều gì nữa!

Ngô Dư không phải thắc mắc quá lâu, đến ngày thứ sáu, Tòng Phương đã nhận diện được nhóm người vùng đồng bằng nọ. Từ lúc người Khau Phạ kéo đến cùng hạ trại, hai bên có trao đổi võ công với nhau, chủ yếu sử dụng kiếm gỗ, trông như đang tập luyện. Tòng Phương từ xa quan sát, nhận ra chiêu thức mà nhóm người vùng đồng bằng sử dụng cùng loại với đao pháp của Nhật Lão và Ngọ cung Bùi Thị Đào, mới hay hóa ra suốt hai năm qua, tộc Khau Phạ đã âm thầm qua lại với Sơn Tây võ phái, chắc chắn là vì án mạng sáu mươi hai người.

Nhật Lão vốn là đệ tử của Phùng Tửu tam gia, một trong ba cao thủ lão niên ở Sơn Tây võ phái. Vụ án mạng ở Hoàng Liên Sơn có liên quan đến Nhật Lão, thanh danh của Sơn Tây võ phái vì vậy cũng ít nhiều bị liên lụy, lần này họ tìm đến Mộc Châu ắt hẳn là để thanh lý môn hộ.

Từ khi biết chuyện, Ngô Dư cứ lo lắng không yên, ngày đêm luôn nghĩ cách ứng phó với Sơn Tây võ phái sao cho không làm tổn hại đến quan hệ hai bên. Tuy vậy, chàng cũng cảm thấy nhẹ lòng phần nào khi nghĩ đến việc Nhật Lão đã dự liệu từ trước, lúc ra đi không hề tiết lộ chính xác nơi mình sẽ đến mà chỉ nói đại khái là đi xuống phương nam. Giờ người Khau Phạ lại phải đến Mộc Châu, chứng tỏ vẫn chưa tìm ra tung tích Nhật Lão; Mộc Hương trang chỉ việc chú tâm quan sát động tĩnh, chuẩn bị đón tiếp người Khau Phạ và Sơn Tây võ phái cho thật phải phép, tránh động thủ phiền phức là được.

Thế nhưng, họa vô đơn chí! Bọn người đóng trại bên bờ sông Đà chưa có hành động gì cụ thể, thì đến ngày thứ mười đại họa khác lại bất ngờ ập tới với Mộc Hương sơn trang. Sớm tinh mơ, khi nền trời vẫn còn đượm màu xanh thẫm, sắc đen của bóng đêm chưa vội tan, bọn thuộc hạ canh gác cổng sơn trang đã nháo nhào chạy vào lớn tiếng báo động, khiến cả trang viện bừng tỉnh. Ngô Dư vội mặc y phục chạy ra ngoài đại sảnh, thấy một thuộc hạ mặt mày tái mét dắt theo năm sáu thuộc hạ khác bị đả thương đến đổ máu, lòng kinh ngạc cùng lo âu, chưa kịp mở miệng hỏi han thì thuộc hạ kia đã vội bẩm báo:

  • Bẩm trang chủ! Đào cung chủ dắt theo chín phu nhân và ba Chi cung chủ khác đang tiến vào đây rồi! Chúng thuộc hạ đã cố gắng ngăn lại, mấy anh em ngoài kia vẫn đang đánh cầm chân họ, nhưng sợ rằng mấy anh em đó cũng đã bị ông ta đả thương cả rồi!

Ngô Dư lập tức chấn động, cảm nhận bất an rất rõ ràng. Hai lần trước đến Mộc Hương trang, Đào Khanh chỉ nhắm vào chàng chứ không hề ra tay với đám thuộc hạ, lần này chọn lúc trời chưa kịp sáng để làm loạn, lại còn đánh người vô can, ấy là chưa kể còn dắt theo cả chín phu nhân và ba Chi cung chủ khác, tức là đủ cả Thập nhị Chi cung! Từ lúc thành lập Linh cung đến nay, chưa bao giờ Đào Khanh lại dắt theo cả mười hai Chi cung chủ cùng rời châu Ái như lần này. Nghĩ vậy, Ngô Dư bèn lệnh cho tất cả thuộc hạ trong trang viện chuẩn bị vũ khí đối phó với Linh cung. Vừa lúc đó, Vân Hương cũng kịp đến đại sảnh, chàng bèn quay sang dặn dò:

  • Vân Hương! Ta giao mẹ con Ý Phương cho cô. Nếu chưa có lệnh của ta, tuyệt đối không được xuất hiện. Cô cứ ở yên trong phòng nghe ngóng, cũng đừng để Như Ý ra mặt. Ta lo sợ xung quanh sơn trang lúc này đã có thuộc hạ của Linh cung bao vây mọi ngả, cô không thể nào dắt theo phụ nữ trẻ nhỏ mà xông ra được. Thế nhưng, chỉ cần tình hình xấu đi, không còn cách nào khác, bằng mọi giá cô phải dẫn họ đi, không được để cho họ có mệnh hệ nào!

Vân Hương cúi mình nói mấy tiếng “Thuộc hạ tuân lệnh!” rồi vội vã chạy về phòng. Ngay sau đó, giọng cười đắc ý của Đào Khanh đã vang vọng ầm ầm khắp các dãy hành lang, ngay cả khi hắn vẫn chưa đặt chân đến khoảng sân trước đại sảnh.

Chú thích:

(1)  Đồng dao mưa: Một bài đồng dao về thiên nhiên đất nước. Kèm theo bài đồng dao này còn có các bài khác cũng rất phổ biến như là: Nắng, Mười hai tháng gió, Trên trời..v..v..

(2)  Mười chín bài cổ thi vô danh: Cổ thi thập cửu thủ_mười chín bài cổ thi vô danh được lưu truyền tại Trung Quốc. Bài thơ về Ngưu lang Chức Nữ được trích trong chương này  là một trong số mười chín bài thơ ấy.

(3)  Truyền thuyết Ngưu Lang Chức Nữ: Truyền thuyết được trích trong chương này dựa theo phiên bản của dân gian Việt Nam. Phiên bản này có một số khác biệt so với phiên bản gốc của Trung Quốc. Khác biệt lớn nhất là theo truyền thuyết Việt Nam, Ngưu Lang cũng là một vị thần; còn theo người Trung Hoa, Ngưu Lang chỉ là một người chăn trâu bình thường.

(4)  Thành bang Amaravati: Nay thuộc tỉnh Quảng Nam, là một trong bốn thành bang của Chămpa khoảng thế kỷ X gồm: Amaravati (Quảng Nam), Vigiaya (Bình Định – Phú Yên), Kauthara (Khánh Hòa), Panduranga (Ninh Thuận – Bình Thuận).

(5)  Châu Hoan: thuộc khu vực tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay.

Hình đại diện của Không hiểu

Tác giả: Mộc Hân

"Phiến đá người thợ xây loại bỏ, sẽ trở nên đá tảng góc tường." "The stone that the builders rejected has become the cornerstone" Kinh Thánh Tân Ước - The New Testament - Matthew 21, 42

2 bình luận về “Chương 9: Phụ tử tương tàn (phần 1)”

  1. e hèm, mèn đét ơi,
    cho góp ý thẳng nha, chương này về nội dung thì cũng ổn, khá khớp với mấy chương kia, nhưng mà văn phong và giọng kể thì không phù hợp, thậm chí nhiều chỗ viết sai
    lấy ví dụ: mưa tháng bảy rả rít sụt sùi thì làm sao đập rào rào.
    chị thấy em nên tăng cường biểu cảm cùng miêu tả, để tăng khả năng lột tả nội tâm và trên hết là phô trương được khí cảnh, tạo hồn cho bài
    nói chung không nên dùng quá nhiều câu song hành như vầy nó loãng lắm, nếu có khả năng thì nên chuyển sang dạng móc xích còn không thì nên trung thành với qui nạo và diễn dịch, tạo thế thuận phong hơn cho bài
    nhưng mà viết được, he he, ráng viết cho hết lẹ lẹ, rồi kiếm nhà xuất bản cộng tác hen

    1. Em cảm ơn chị nha! Tiện thể nói về vụ ‘rào rào’, cái này ko phải bào chữa nhưng sự thật là từ đó đến giờ cảm giác của em về cái âm thanh này nó rất khác, khác đến nỗi em quên mất tiêu cái này là mái ngói chứ ko phải mái tôn! =))
      Tiếp theo là vụ biểu cảm, phần này em viết vội quá nên chưa kịp trau chuốt, cái này em thừa nhận là mình còn kém cỏi. Sang phần 2 (từ chương 11 đến chương 26), em đã cố khắc phục rồi, và hi vọng đến lúc đó chị sẽ hài lòng! :”>
      Chân thành cảm ơn chị! :”>

Bình luận về bài viết này