Thuở xưa trẻ nhỏ vui đùa,
Hôm nay nhi nữ đã thừa tâm tư.
Một lời chẳng thiếu chẳng dư,
Mới hay gặp lại chẳng vừa nhớ nhung.
Phần 1:
Công Uẩn đến Phạm gia trang vào một ngày cuối tháng giêng, khí trời vẫn còn rét mướt. Y lưu lại đấy không lâu, đủ để Ngô Bình nói tất cả những gì cần nói; sáng hôm sau, y lại lên đường về Hoa Lư từ rất sớm. Trong vòng một ngày đó, cũng thật khéo, lại trùng với khoảng thời gian Như Như quay về Hoa Lư dịp Tết Nguyên Đán, thành thử Ngô Bình có thể trò chuyện thoải mái với Công Uẩn mà không phải đề phòng nghi ngờ gì. Chuyện của ni cô Diệu Hạnh giao phó, xem như chàng đã làm xong. Tuy nhiên, từ tháng tám năm ngoái đến nay đã gần nửa năm, thời gian lâu như vậy, thiền sư Vạn Hạnh vẫn còn ở kinh đô, mọi chuyện xảy ra tại Cổ Pháp không ai có thể quản được. Biết mình đã quá chậm trễ so với dự tính, thương thế ở tay vẫn chưa hồi phục, Ngô Bình cũng không muốn giữ Công Uẩn ở lại Phạm gia trang, chỉ thầm mong y về Hoa Lư sắp xếp việc công, thưa chuyện với thiền sư Vạn Hạnh rồi lập tức đến Cổ Pháp gặp ni cô Diệu Hạnh, đừng để có chuyện bất trắc gì xảy ra.
Nỗi lo lắng của ni cô Diệu Hạnh về bí mật thân phận của Công Uẩn tuy đã phần nào được giải quyết ổn thỏa, nhưng Ngô Bình không vì thế mà cảm thấy nhẹ nhõm. Trái lại, tâm tư chàng ngày càng bất an, vẻ ngoài cũng vì vậy mà trầm mặc thấy rõ. Công Uẩn với chàng, tuy là chỗ anh em đồng môn, nghĩa tình sâu sắc hiếm có, nhưng những chuyện liên quan đến quá khứ của Nhật Lão, tốt nhất vẫn là đừng nói ra. Vì thế, mặc dù Nhật Lão mất tích nhiều tháng nay, Ngô Bình lại chẳng dám đề cập đến nửa lời trước mặt Công Uẩn. Đến lúc chia tay nhau ở bến sông, Công Uẩn lại khẳng định lần này về Cổ Pháp sẽ đến chỗ Nhật Lão thăm hỏi, tiện thể báo luôn tình hình hồi phục của Ngô Bình để ông khỏi lo lắng. Ngô Bình khi ấy chỉ còn cách nói dối y, rằng ông ngoại mình đã quay về Mộc Hương sơn trang từ lâu, hiện cả ông và Tòng Phương đều chưa biết gì về việc chàng đang trị thương ở Phạm gia trang. Công Uẩn khi ấy cũng có chút bất ngờ, y trách mắng Ngô Bình đã không tìm cách gửi thư đến Mộc Châu, rồi thuận miệng hứa hẹn sẽ cho người báo tin cho Tòng Phương biết.
Công Uẩn sắp xếp như vậy, xem ra cũng không hẳn là không có lợi. Suốt sáu tháng qua, Tòng Phương nếu có đến Cổ Pháp, không thấy ông cháu Ngô Bình đâu, lại cũng không gặp được thiền sư Vạn Hạnh, chắc chắn sẽ rất lo lắng mà ngầm sai thuộc hạ tìm kiếm khắp nơi. Nay, nếu Công Uẩn cho người lên Mộc Châu báo tin, Tòng Phương hẳn nhiên sẽ chạy đến Lục Châu ngay lập tức, chuyện Nhật Lão mất tích lúc ấy mới có thể nhờ cậy Tòng Phương khẩn trương tìm kiếm, nếu may mắn còn có thể trông mong vào các nữ hiệp của Thạch Hà phái nữa. Ngẫm nghĩ như thế, Ngô Bình chỉ còn cách ngày ngày luyện võ ở Phạm gia trang cho vơi bớt lo lắng trong lòng, chờ đến khi gặp được Tòng Phương mới có thể tính tiếp.
Những ngày làm người nhàn rỗi ở Phạm gia trang, tuy lòng dạ Ngô Bình lo lắng không ngừng nhưng thời gian lại trôi qua rất nhanh, quay đi quay lại cũng đến tháng tư. Tính từ ngày Công Uẩn rời Phạm gia trang, đến nay đã hơn hai tháng. Ngô Bình ngày ngày ngóng đợi tin tức của Tòng Phương, đã qua ba lần trăng tròn mà vẫn chẳng thấy tăm hơi gì, chàng mới giật mình lo lắng, biết đâu Công Uẩn vì bận rộn công cán ở Hoa Lư nên đã quên chuyện báo tin cho Tòng Phương mất rồi.
Lại nói về cánh tay phải của Ngô Bình, ngày hôm đó bị Phượng Hoàng ra tay đả thương rất dứt khoát, nếu không gặp được nhóm người Hải Đông phái, e rằng mất mạng là điều khó tránh khỏi, mà gặp được rồi, nếu chẳng có người như Trí Anh giúp đắp thuốc cầm cự, chỉ sợ đến được Bạch Đằng Giang cũng đã muộn màng, cả cánh tay có khi phải phế bỏ. Thương thế nặng như vậy, muốn hồi phục hoàn toàn cũng chẳng phải một sớm một chiều. Trong vòng ba tháng đầu tiên, Ngô Bình tuyệt nhiên không được vận động quá mạnh, đừng nói gì đến tập võ. Trong ba tháng tiếp theo, Phạm thần y đã cho phép chàng được luyện công trở lại, nhưng phải tránh tối đa việc sử dụng tay phải. Lâu ngày không đụng đến cung kiếm, chàng cảm thấy rất khó chịu, tưởng như đến lúc được luyện tập lại rồi sẽ rất vui sướng, nào ngờ sự thể không như mong đợi, vui sướng đâu không thấy, chỉ thấy thất vọng vô cùng. Những môn trước đây chàng thường hay tập luyện gồm Mộc Hương Kiếm, Phong Vân Đao, Phật Môn Kiếm đều chủ yếu dùng tay phải, nay đột ngột chuyển sang tay trái, khó tránh khỏi luống cuống như kẻ mới cầm kiếm lần đầu. Chàng bắt đầu luyện lại những môn võ công đã học, dùng hoàn toàn bằng tay trái, tự nhủ lần này bị thương ở tay phải cũng không hẳn toàn đem đến điều xui xẻo. Trước đây luyện kiếm, chàng chỉ toàn chú tâm luyện tay phải mà lơ là tay trái, nay có dịp thử đánh bằng tay trái, mới thấy phát sinh thêm rất nhiều điều thú vị. Ngày dài tháng rộng, ở Phạm gia trang không sợ nhàn rỗi, chỉ lo đầu óc không đủ thông tuệ, không thể phát triển thêm kỹ thuật dùng kiếm bằng tay trái mà thôi.
Một ngày mới của Ngô Bình ở Phạm gia trang thường bắt đầu khi mặt trời chưa ló dạng. Hôm nay cũng vậy, chàng thức dậy từ rất sớm, âm thầm rời phòng, đem theo thanh kiếm mượn tạm của Trí Anh ra vườn thuốc luyện võ. Trí Anh nhiều tháng nay thường xuyên đi đi lại lại giữa Hải Đông phái và Phạm gia trang, mỗi lần đi về cách nhau độ vài tuần, chủ yếu là để học hỏi y thuật của Phạm gia. Về vết thương của Ngô Bình, biết là đang trên đà hồi phục nên dần dần y cũng không quá lưu tâm đến nữa, lâu lâu gặp lại thì cùng trò chuyện đôi ba câu để tránh cảnh tịch mịch. Hôm nay trời trong gió mát, khung cảnh vẫn còn chìm trong bảy phần đêm đen, ánh sao sáng rực làm long lanh những giọt sương bám ướt trên mấy sợi dây leo xanh um đang nhẹ đưa mình theo gió. Khu vườn thuốc hiện ra trước mắt, sắc xanh nhạt nhòa mờ ảo, hình thù từng cụm cây lờ mờ lay động. Bất giác, chân Ngô Bình chựng lại ở cuối đoạn hành lang. Giữa vườn, một bóng người gầy guộc đang đứng bất động hướng về phía khu rừng, dải áo choàng xám nhạt rũ xuống ôm trọn lấy thân hình mảnh dẻ. Ngô Bình vội vàng đưa tay dụi mắt để chắc rằng mình không nhìn lầm rồi mới lập tức chạy đến, chân nện từng nhịp xuống nền đất, bóng áo xám nhạt vẫn không quay lại. Dừng bước bên cạnh nàng, chàng ngập ngừng đưa tay, do dự một lúc thì nắm luôn lấy bàn tay nhỏ bé đang vò nát dải áo choàng. Bàn tay nàng lạnh ngắt, làn da ẩm hơi sương, vạt áo bám đầy bụi đất. Ngô Bình bước lên nhìn cho rõ khuôn mặt xanh xao của nàng, thoáng bối rối khi chạm phải cặp mắt long lanh ngấn lệ. Nàng lặng lẽ rụt tay lại, hít thật sâu làn khí buổi sớm, nhẹ nhàng thở ra rồi mới quay đầu nhìn Ngô Bình, mỉm cười như thường lệ. Cặp chân mày Ngô Bình lập tức cau lại, giọng vừa lo vừa giận:
– Như Như, cô sao vậy? Đi cả đêm để đến đây ư? Lạnh toát thế này rồi mà còn cười nổi! Mau theo tôi về phòng, hứng gió hứng sương trọn đêm rồi còn gì!
Nụ cười bình thản không chút gượng ép vẫn túc trực trên môi, nàng níu tay áo Ngô Bình, nói khẽ:
– Tôi đến từ tối hôm qua rồi, tại anh đi ngủ sớm quá nên không biết đấy thôi!
Ngô Bình âu lo nhìn nàng, lòng đầy nghi hoặc, hỏi:
– Có thật không? Vậy cô đứng đây làm gì? Để chốc nữa tôi hỏi lại Hoàng Mai, xem có thật là cô đến từ tối hôm qua không.
Như Như phì cười, đáp:
– Anh chẳng bao giờ chịu tin tôi, muốn hỏi thì cứ hỏi. Đêm qua tôi ngủ không ngon, biết sáng nay thể nào anh cũng ra đây luyện võ nên mới đứng chờ sẵn.
Ngô Bình chăm chú quan sát nàng thêm chút nữa, toan hỏi xem vì sao nàng buồn, nhưng sợ nàng không muốn nói, lại cũng sợ là chuyện bản thân không nên nghe, đành thôi không hỏi nữa mà bâng quơ hỏi:
– Chờ đã chờ rồi, gặp cũng đã gặp rồi, sao cứ đứng yên lặng mãi?
Như Như quay người bước đi, hướng về phía dãy hành lang, nói:
– Nếu anh không vội thì cùng tôi đi dạo. Tôi nghe Hoàng Mai nói, có ngắm mặt trời mọc ở bến sông mới biết Bạch Đằng Giang đẹp và rực rỡ nhường nào!
Ngô Bình chần chừ một lúc, sau cùng cũng đi theo Như Như. Đoạn đường rừng từ Phạm gia trang ra bến sông cũng không gần, hai người cứ thế đốt đuốc thả bộ, đến nơi vừa kịp lúc trời tảng sáng.
Quả nhiên, con sông Bạch Đằng nhuộm màu bạc thếch buổi chiều cuối thu năm ngoái, giờ vô cùng tráng lệ dưới bầu trời hừng đông rực rỡ huy hoàng. Không còn là những con sóng bạc trắng lăn tăn, không còn là những dải rừng xanh nhạt nhòa trong từng sợi gió cuối thu năm trước; giờ đây trước mắt Ngô Bình là một khung cảnh tràn trề sức sống, màu vàng trong trẻo của nắng sớm, màu biếc xanh của dãy rừng ôm trọn dòng sông trắng lấp lánh, màu nâu xám của những doi đất thoai thoải đổ xuống sát mép nước, màu lam dịu của nền trời phía Tây, nơi vầng mặt trời vẫn còn núp quá nửa sau rặng cây chưa kịp thả nắng đến, tất cả những sắc màu ấy hòa quyện vào nhau, mặc sức tung tẩy trên bức tranh thiên nhiên hoàn hảo.
Sau một thoáng ngỡ ngàng trước khung cảnh trời mây nước vùng Lục Châu, Ngô Bình quay sang Như Như, định nói mấy lời cảm thán thì đã trông thấy nét mặt bình thản của nàng, tựa như khung cảnh bình minh này chẳng thể thả nổi chút cảm xúc vào trong ánh mắt long lanh đen thăm thẳm ấy. Lòng Ngô Bình đột nhiên quặn lên, sự hoài nghi ngày nào giờ lại rõ ràng hơn bao giờ hết. Người con gái đang đứng bên cạnh chàng, có thể không phải là một cao thủ võ lâm, có thể cũng không phải là một đại tiểu thư quyền quý bên cạnh các mối quan hệ chằng chịt với đám vương tôn quý tộc, những điều ấy thực hư thế nào, Ngô Bình vẫn không thể đoán ra, mà thực chất cũng không muốn đoán ra; nhưng rõ ràng, nàng ta là một cao thủ trong việc che giấu cảm xúc. Nét bình lặng trên gương mặt nàng hoàn hảo đến không ngờ, cứ như thể người con gái với cặp mắt long lanh ngấn nước khi còn ở trong vườn thuốc kia chưa từng tồn tại vậy. Đến lúc này, Ngô Bình không thể cứ giấu mãi nỗi niềm được nữa, bèn lên tiếng:
– Như Như, thật ra trong lòng cô đang nghĩ gì vậy?
Nàng quay đầu mỉm cười, vẫn là nụ cười hồn nhiên không một chút tì vết của sự giả tạo, giọng nàng trong vắt:
– Anh vẫn sẽ không tin tôi đâu, nhưng vì anh hỏi nên tôi sẽ nói. Lúc này tôi thật sự chẳng đang nghĩ gì cả.
Một thoáng khó hiểu vụt qua cái nhìn của Ngô Bình, chàng hỏi tiếp:
– Một chút tâm tư cũng không có sao?
Như Như đáp, giọng nhẹ hẫng:
– Không!
Ngô Bình chau mày, có thể nàng nói dối, cũng có thể nàng nói thật. Nhưng điều ấy vốn dĩ là không quan trọng, nếu nàng muốn tỏ ra bình thản, thì chàng cũng sẽ đóng trọn màn kịch này với nàng. Trong lúc Ngô Bình còn đang tư lự, Như Như đã bật cười trong trẻo:
– Vốn dĩ là không muốn nhắc đến, nhưng sợ là không nhắc thì anh sẽ rầu rĩ mãi, đành phải nói vậy_nàng nói đến đấy, Ngô Bình đã thất vọng nhận ra, đúng là bản thân không hề giỏi che giấu cảm xúc, tuồng chưa kịp diễn, đã liền bị người ta phát hiện. Như Như nói tiếp_Ở Hoa Lư có quá nhiều chuyện khiến tôi không thoải mái, về đây là để tìm chút yên bình.
Nàng mỉm cười, ánh mắt long lanh tinh nghịch. Ngô Bình từ chỗ chăm chú lắng nghe, đến đây thì cụt hứng, liền ngớ người ra, lắp bắp:
– Chỉ…chỉ có vậy thôi sao?
Như Như bật cười:
– Ừ, chỉ có vậy thôi, không được sao?
Ngô Bình vừa cảm thấy kinh ngạc, lại vừa muốn phì cười trước thái độ lấp lửng của Như Như. Song, chàng chưa kịp phản ứng gì, Như Như đã liền đẩy mạnh lên vai trái của chàng, thuận đà bật ngược ra sau, tay xòe ra mười mấy mũi Kim Yên Châm, đứng thủ thế như thể sắp nhảy bổ vào đánh nhau một trận vậy. Vẻ mặt nàng hào hứng tươi tắn khiến Ngô Bình không khỏi bất ngờ, đang khi chàng còn lúng túng, Như Như đã nói:
– Nghe Mai cô nói mấy tháng nay anh rất chăm chỉ luyện võ bằng tay trái, tiện thể hôm nay anh chưa vận động gân cốt, tôi muốn thử đấu với anh vài chiêu, được không?
Ngô Bình bật cười, chậm rãi rút thanh kiếm ra khỏi bao, nói:
– Từ dạo quen biết nhau đến giờ chỉ mới đánh nhau một lần ở am Thanh Tịnh, vẫn chưa biết cô lợi hại thế nào. Hôm nay cô đã muốn thử, tôi mong còn không được, sao lại từ chối chứ!
Như Như nháy mắt, cố ý nói thật nhỏ:
– Anh nhầm rồi!
Ngô Bình chau mày kinh ngạc, vừa kịp nói mấy chữ: “Cô lẩm bẩm gì vậy?” thì Như Như đã liền tung đợt ám khí đầu tiên. Chàng vội vàng đưa lưỡi kiếm gạt phăng từng đợt kim châm, tay trái cứ thế nhịp nhàng dùng Mộc Hương Kiếm chống trả, đầu lại nghĩ thầm:
“Ám khí của Thạch Hà Phái được mạ vàng, khi phóng lại thành từng đợt chứ không phóng riêng lẻ, môn Kim Yên Trận vốn cũng là trận pháp, dùng để đánh phối hợp. Khi lạc vào thế trận của các nữ hiệp Thạch Hà phái, sẽ thấy kim châm văng tứ phía, thoạt nhìn như những đám khói vàng ánh kim, có lẽ vì vậy nên mới gọi là Kim Yên Trận. Nhưng sao những đợt ám khí của Như Như không chỉ đơn giản là đợt ám khí này tiếp nối đợt ám khí khác, mình đánh nãy giờ vẫn không gạt hết được mấy mũi ám khí, nàng ấy lý nào lại mang theo trong người nhiều kim châm đến vậy?”
Trong lúc chàng còn đang mải mê nghĩ ngợi, Như Như lại lên tiếng:
– Mộc Hương kiếm quả nhiên lợi hại, nhưng loại kiếm pháp anh đang dùng hình như là có lai tạp!
Ngô Bình ngạc nhiên hỏi lại:
– Lai tạp gì chứ?
Như Như đáp, tay vẫn không ngừng tung ám khí:
– Một nửa là Mộc Hương kiếm, một nửa lại giống kiếm pháp mà Lý tướng quân hay dùng!
Ngô Bình giật mình nghĩ thầm: “Mình luyện tập lâu ngày, đem kết hợp Phật Môn kiếm với Mộc Hương kiếm lúc nào không hay. Như Như thông minh như vậy, lại rành rẽ võ công trong thiên hạ, làm sao qua mắt được nàng ấy! Thôi thì nói vài lời cho qua chuyện, đừng để nàng ấy phát hiện chân tướng võ công của mình là từ Triệu gia kiếm phổ mà ra là được!”. Nghĩ vậy, chàng liền đáp:
– Tôi từ nhỏ ở Linh Cung đã học rất nhiều loại võ công, sau này đến chỗ thiền sư Vạn Hạnh, anh Công Uẩn lại dạy thêm vài đường kiếm mà anh ấy tự nghĩ ra, tôi dùng quen tay, không còn phân biệt được là mình đang sử dụng chiêu thức nào nữa!
Như Như thích thú hỏi tới:
– Từng thấy anh dùng qua Mộc Hương quyền, anh còn biết thêm loại võ công nào nữa?
Biết những chuyện này sớm muộn gì nàng cũng nhận ra, Ngô Bình không cố ý giấu giếm, bèn thật thà nói:
– Biết một ít Phong Vân Đao, một ít Thạch Ngọc Trảo, một ít võ công Hải Đông phái, và cả một ít Kim Yên Trận nữa!
Nói đến đó, Ngô Bình liền xoay lưỡi kiếm lại, tra thật nhanh vào bao, bàn tay trái đưa ra, lựa thế gom ngang một loạt ám khí mà Như Như vừa phóng đến, toan phóng trả lại để chứng minh rằng mình quả thật có biết một ít Kim Yên Trận. Nào ngờ, vừa chụp gọn mấy mũi ám khí, chưa kịp giật lại đã liền cảm thấy có chút khác lạ, Ngô Bình định thần nhìn thật kỹ, hóa ra từng mũi kim châm đều được buộc vào một sợi chỉ mảnh, cọng chỉ căng bóng. Ngô Bình nhìn về phía Như Như, thấy nàng rõ ràng là đang nắm một bó sợi, giật về. Chàng vội vàng buông loạt kim châm ấy ra, cười to lộ vẻ thích thú:
– Cứ tưởng cô thừa ám khí, hóa ra là dùng thủ thuật này để lừa tôi!
Bằng một cú chụp điêu luyện, mười mấy mũi ám khí đã nằm gọn trong tay Như Như; nàng nói:
– Thủ thuật gì chứ, đệ tử Thạch Hà nữ phái lúc nào cũng có sẵn vài chục mũi ám khí có buộc chỉ mảnh để dễ dàng thu về, số ám khí tự do thì tùy thuộc sở thích mỗi người. Cái mà anh vừa gọi là thủ thuật, từ mấy năm nay đã rất phổ biến ở Thạch Hà phái, là do một vị cô cô trong Thập Can Nương nghĩ ra!
Ngô Bình nhíu mày, bất giác nghĩ ngay đến Xuân Lan, bèn nói trong vô thức:
– Là Đinh Tứ Nương phải không?
Như Như nhìn chàng đầy kinh ngạc, sau cùng nhếch miệng cười, nói:
– Chuyện ở Thạch Hà nữ phái, anh còn biết nhiều hơn tôi đấy!
Rồi nàng lại tiếp tục tung mười mấy mũi Kim Yên Châm có buộc chỉ về phía Ngô Bình. Lúc này, chỉ cần một nhát chém đơn giản vào những sợi chỉ, lập tức mấy mũi ám khí sẽ không còn đường để thu về, thế nhưng hiếm khi có cơ hội đấu thêm vài chiêu với đệ tử Thạch Hà nữ phái để mở rộng tầm mắt, Ngô Bình không vội phá hủy thế trận đó mà cứ tiếp tục hất những mũi ám khí ra. Như Như hiểu ý chàng, bản thân cũng muốn xem thêm những kiếm pháp của chàng, nên hai người cứ thế đẩy đưa qua lại, không ai ra tay dứt khoát cả.
Đấu một hồi, đột nhiên từ đâu phóng tới mười mấy mũi ám khí khác, một phát cắt lìa từng sợi chỉ một, mấy mũi kim châm của Như Như văng đi. Ngô Bình và Như Như đều rất sửng sốt, cơn kinh động chưa kịp dịu xuống, đã có thêm một loạt ám khí khác từ phía con sông phóng đến, nhắm vào Như Như. Ngô Bình giật mình lao tới, chụp vội lấy cánh tay nàng, kéo giật về, vừa kịp lúc mấy mũi ám khí lạ lướt qua. Hai người lo âu nhìn ngay ra dòng sông, quả nhiên có một con thuyền nhỏ đang chậm rãi rẽ nước cập bến.
Cao thủ vừa phóng ám khí có lẽ là một trong hai người đang đứng trên thuyền, lặng lẽ nhìn về phía bờ sông. Họ, một nam nhân thân hình cường tráng, dáng điệu trông rất quen thuộc, và một nữ nhân vóc người mình hạc xương mai, dải tóc đen buộc hờ hững ngang lưng tung bay trong gió sớm. Ngô Bình sững người, nhìn chăm chú vào hai người đang đứng bất động trên thuyền; họ mỗi lúc một gần hơn, diện mạo cũng dần dần rõ ràng trong tầm mắt.
Khi con thuyền nhẹ nhàng cập bến, hai người nọ bước vội lên bờ. Người thanh niên thì mừng rỡ ra mặt, vừa trông thấy Ngô Bình đã nhoẻn miệng cười thật tươi; còn người con gái tầm chừng trên dưới hai mươi lăm, nét mặt phảng phất chút hồ nghi, cặp chân mày nhíu lại, hết nhìn Ngô Bình rồi lại nhìn Như Như. Ngô Bình sững người, nhận ra ngay thanh niên nọ chính là Tòng Phương, lòng bất giác trào lên bao niềm xúc động lẫn với lo âu trăn trở suốt mấy tháng trời. Chàng dợm lao người đến tay bắt mặt mừng, nhưng chân tay luống cuống, muốn bước đi mà chân cứ chùng lại, đành đứng bất động ngây người nhìn. Nguyên nhân của sự lúng túng ấy, chính là từ người con gái đi cùng với Tòng Phương mà ra. Nàng dung mạo vẫn xinh đẹp, nhưng sắc diện không còn vẻ hồn nhiên, nét mặt lạnh băng nửa quen nửa lạ, ánh mắt lấp lánh tinh tường thông tuệ. Trong tâm tưởng Ngô Bình lập tức hiện ra hình ảnh người thiếu nữ với tấm mạng che mặt thường trực suốt hơn mười năm trời, người thiếu nữ vẫn luôn dạy võ công cho chàng, cốc đầu chàng và mắng chàng ngốc nghếch; cũng chính nàng, người thiếu nữ đã thẳng tay tát chàng ba cái vào cái đêm chàng cùng Công Quý đánh nhau với Công Lục; và quan trọng hơn hết, nàng chính là người mà chàng ngày nhớ đêm mong, suốt bảy năm trời chỉ biết gửi gắm tâm tư vào từng câu từng chữ theo những bức thư xa xôi diệu vợi, là người mà chàng nghĩ đến đầu tiên khi lâm vào cảnh hiểm nguy thập tử nhất sinh. Đào Xuân Lan năm nào, giờ đã là Đinh Tứ Nương rắn rỏi dạn dày kinh nghiệm, cao thủ bậc nhất của Thạch Hà nữ phái.
Tòng Phương thấy Ngô Bình không nhấc nổi chân thì âu lo ngoái nhìn Xuân Lan rồi vụt chạy đến, siết tay Ngô Bình, nói một tràng không ngừng nghỉ:
– Công tử, tôi nghe Lý tướng quân nói cậu bị người ta đánh trọng thương, đang ở Phạm gia trang chữa trị, bèn ngay lập tức tìm đến đây. Rốt cuộc mọi chuyện là thế nào? Kẻ nào đã đánh cậu? Tôi có ghé Cổ Pháp mà không gặp ông ngoại cậu, ông ấy có ở đây với cậu không? Thương thế của cậu đã đỡ chưa?_Nói đến đây, Tòng Phương liếc nhanh sang Như Như đang đứng bên cạnh, bối rối nói tiếp_Vị tiểu thư này…ban nãy tôi còn tưởng là đang gây sự với công tử, rối trí quá mới hối thúc Đào tiểu thư bắn ám khí trợ giúp, không ngờ là hiểu nhầm, tôi…
Ngô Bình mỉm cười, nhẹ nhàng ngắt lời Tòng Phương:
– Anh cứ từ từ đã, tôi vẫn bình an vô sự mà…
Tòng Phương nói vội, vẻ mặt rất căng thẳng:
– Công tử, tôi lo quá…
Ngô Bình trấn an:
– Chuyện còn dài, lại cũng có nhiều điều muốn nhờ anh giúp. Anh chưa gì đã lo lắng, tôi biết phải làm sao đây?
Tòng Phương ngớ người ra một lúc, sau cùng cũng gượng cười, nói:
– Đúng là tôi đã quá lo sợ, dọc đường đến đây mà lòng không yên, lại nghĩ…_y quay đầu nhìn về phía sau, nơi Xuân Lan vẫn còn đang đứng yên lặng rồi quay lại tiếp lời_lại nghĩ mọi việc chắc chắn không hề đơn giản, bèn chạy xuống Thạch Hà làm phiền đến Đào tiểu thư…
Tòng Phương nói đến đây, không biết phải nói gì thêm, đành bỏ lửng, tiến đến đứng cạnh Ngô Bình, nhường lời lại cho Xuân Lan. Xuân Lan từ lúc mới đến vẫn chưa nói câu nào, thái độ cũng hết sức kỳ quặc, trước sau vẫn là chú mục vào Như Như. Đợi Tòng Phương nói xong, Như Như bèn rụt rè bước lên trước mặt Xuân Lan, cúi đầu hạ giọng:
– Đệ tử tham kiến Đinh cô cô!
Xuân Lan vẫn chau mày, lãnh đạm hỏi:
– Ngươi là ai?
Một thoáng ngạc nhiên lập tức lướt qua ánh mắt Ngô Bình. Như Như rõ ràng là đệ tử của Kỷ Lục Nương, sao Xuân Lan lại không hề biết? Nếu cho rằng Như Như vì chưa từng rời khỏi Hoa Lư, thì sao lại biết Xuân Lan chính là Đinh Tứ Nương của Thạch hà phái? Chàng vội nhìn sang Xuân Lan, thấy nàng đang cài cây Ngân Trâm Tứ Nương năm nào Đỗ chưởng môn đã trao cho tại khu rừng nơi miếu Định Quốc Công, phút chốc liền hiểu ra tất cả. Như Như vẫn khom người, không vội ngẩng mặt lên, đáp:
– Đệ tử là Như Như, thị nữ trong phủ Nhân Trí Vương, là đệ tử của Kỷ Lục Nương.
Nét mặt Xuân Lan vẫn lạnh như tượng, cặp chân mày có hơi chau lại một chút rồi liền giãn ra, chớp nhoáng đến độ nếu không để tâm thì khó mà nhận thấy. Rồi nàng thong thả bước lướt qua Như Như, đến trước mặt Ngô Bình, nhìn chăm chăm vào chàng, ánh mắt toát lên thần sắc lạ kỳ, nét mặt trầm lại. Ngô Bình nửa muốn chào hỏi, nửa muốn yên lặng, nửa thấy thân quen, nửa lại thấy xa cách, trong lòng lúng túng không thể tả, nhất thời cứ đứng ngẩn người ra. Xuân Lan quan sát một hồi, sau cùng cũng có phản ứng, khóe môi nàng chếch lên thật nhẹ, tạo thành một nụ cười nửa miệng, rồi nàng bất ngờ vung tay cốc vào trán Ngô Bình, nói:
– Vẫn ngốc như ngày nào!
Ngô Bình giật mình, đưa tay xoa trán, mắt vẫn dán vào khuôn mặt nửa tinh nghịch, nửa giễu cợt của Xuân Lan. Bất chợt, chàng thấy sống mũi mình cay cay, khung cảnh trước mắt nhòa dần đi, lại nghe thấy giọng Xuân Lan ôn tồn, nhẹ tựa làn gió:
– Vẫn thế! Ngày xưa ngươi là trẻ con, ta còn chấp nhận được, giờ đã cao lớn hơn cả ta, khóc lóc còn ra thể thống gì nữa?
Ngô Bình nhanh chóng đưa tay lau khô cặp mắt, bật cười nhẹ nhõm:
– Tưởng là chị đã quên tôi rồi, hoặc là chẳng còn nhận ra tôi nữa!
Xuân Lan tiến đến gần hơn, tông giọng lúc này đã tràn đầy cảm xúc:
– Mười năm trời sống cùng nhau dưới một mái nhà, ngươi bảo cứ quên là quên sao? Tháng nào cũng viết thư cho ta, ngươi tưởng chỉ mỗi mình ngươi biết nhớ sao?
Rồi Xuân Lan siết chặt bàn tay Ngô Bình, lặng lẽ nhìn chàng, nét mặt phẳng lặng. Sau cùng, khóe mắt nàng cũng ngấn nước, nhãn quang long lanh dưới vầng mặt trời đã lên cao. Ánh sáng lan tỏa, lấp lánh khắp cả khúc sông, làn nước nhịp nhàng lay động, trông như hàng trăm đỉnh nắng vàng đang nhảy múa trên mặt sóng. Gió nhẹ sóng nước nhấp nhô, đâu hay sóng lòng cũng đã cuộn trào từ khi con thuyền nhỏ vẫn chưa cập vào bờ.
…
