Chương 31: Giăng bẫy (phần 2)

Cảm Thánh cùng viên quan hoạn đi cả rồi, Yến Lan vẫn chần chừ đứng nhìn theo trước thềm nội điện. Trương Tuấn không khỏi sốt ruột, bèn cao giọng hối thúc:

–       Tiểu thư sao vậy? Vào mau đi chứ!

Yến Lan lặng thinh không phản ứng, nhưng sau một hồi lâu suy tư, nàng lại bật cười tự nhạo chính mình, chỉ vì vài lời hù dọa vô căn cứ của Cảm Thánh mà tỏ ra lo âu không cần thiết trước mặt cô ta. Nghĩ vậy, nàng bèn thở một hơi thật sâu để lấy lại bình tĩnh rồi mạnh dạn bước vào trong, sẵn sàng đối phó với mọi tình huống. Phía sau lưng, cánh cửa lập tức khép lại.

Không khí bên trong điện Trường Xuân u ám nặng nề, chẳng có cung nữ, cũng chẳng có nội quan, chỉ có y, Lê Long Đĩnh, đang ngồi chênh vênh trên ngai, đối diện với y chính là anh trai nàng, tướng quân Lý Công Uẩn. Tim nàng se lại, động tác đã bắt đầu khẽ run rẩy, thầm lo sợ Cảm Thánh phu nhân chẳng phải ác ý hù dọa mà đích thực là cảnh báo về cơn giận khó lường của Long Đĩnh. Tuy vậy, nàng vẫn giữ đều nhịp chân, cố tỏ vẻ bình thản bước tới. Vừa nhác thấy nàng, Long Đĩnh chỉ nhếch mép cười rồi nói:

–       Lý tướng quân, mau quay lại xem ai vừa đến kìa!

Công Uẩn lập tức quay lại, thái độ mười phần ngạo nghễ không chút kiêng dè thánh nhan. Tuy nhiên, vừa nhận ra là Yến Lan, cử động của y cũng theo thị giác mà đông cứng lại, mặt chuyển sang nhợt nhạt trắng bệch. Tim Yến Lan bất giác đập thình thịch từng nhịp cảnh báo, quả nhiên Long Đĩnh muốn lợi dụng nàng để giở trò uy hiếp Lý Công Uẩn, có điều, nàng vẫn còn chưa hiểu, rốt cuộc y cần gì ở anh trai nàng. Nàng lấm lét hết đảo mắt nhìn Long Đĩnh rồi lại nhìn sang bộ dạng hoang mang của Công Uẩn, hai tiếng “anh trai” nghẹn cứng nơi cổ họng, bối rối chẳng nói nên lời. Long Đĩnh không hề tỏ ra kiên nhẫn, tiếp tục nhạt giọng kéo Công Uẩn quay lại câu chuyện dang dở trước lúc Yến Lan bước vào:

–       Lý tướng quân, trẫm hỏi lại một lần nữa, kẻ bắt Ngọc Minh quận chúa đem đi có phải là Ngô Bình sư đệ của ngươi không?

Yến Lan nghe thấy Long Đĩnh đột ngột gọi tên Ngô Bình thì sửng sốt đến thất sắc, sau lại vì mấy tiếng “Ngọc Minh quận chúa” mà bất giác ngộ ra toàn bộ vấn đề. Nàng không rời mắt khỏi Công Uẩn, biểu cảm bình thản đã chuyển sang bồn chồn khó chịu.

Công Uẩn chau mày đáp lại ánh nhìn đau đáu từ phía Yến Lan, mắt lóe lên vài phần thấu hiểu. Rồi y gồng mình quay lại, ép cho lưng khom xuống, tông giọng ba phần miễn cưỡng bảy phần khuất phục:

–       Bẩm hoàng thượng, thần thật sự không biết kẻ đó là ai!

Long Đĩnh nói, giọng điệu thờ ơ:

–       Nếu đã không biết, trẫm cũng không ép ngươi nói bừa. Ngay bây giờ ngươi dẫn quân cấm vệ đến chùa Nhất Trụ, tìm không được sư đệ của ngươi thì cứ việc hộ tống thiền sư Vạn Hạnh vào cung gặp trẫm!

Công Uẩn vẫn giữ dáng khom lưng kính cẩn, giọng điệu lại lạc sang vài phần khó chịu, nói như sắp rống lên vì hết sức kìm nén:

–       Thần tuy không biết kẻ bắt quận chúa là ai, nhưng trông y mười phần không giống sư đệ của thần. Xin hoàng thượng rộng lòng suy xét, niệm tình thiền sư tuổi cao sức yếu…

Chẳng chờ Công Uẩn nói hết, Long Đĩnh đã gằn giọng nhắc nhở:

–       Lý tướng quân, trẫm muốn gặp sư đệ của ngươi, chưa từng bảo hắn chính là kẻ bắt Ngọc Minh quận chúa, ngươi đừng lần khân làm mất thời gian của trẫm, trẫm còn có việc phải hỏi Đào tiểu thư.

Công Uẩn nghiến răng, mười đầu ngón tay gồng cứng nắm chặt lại trước mặt, lưng khom xuống thêm vài phần, sau cùng cũng đành bất lực nói:

–       Tuân lệnh!

Rồi y quay phắt người rời khỏi điện Trường Xuân, hàng lông mày rậm chau lại không giấu được sự bất nhẫn lóe lên từ đáy mắt.

Nội điện rộng lớn chỉ còn lại hai người. Lý Công Uẩn vừa đi, Lê Long Đĩnh lập tức đổi sang bộ dạng ôn nhu đáng ngờ. Yến Lan từ chỗ hoang mang khó hiểu, nay đã chuyển hẳn thành sợ hãi tột cùng. Nàng chẳng dám nhìn y thêm khắc nào nữa, cũng chẳng dám khinh suất ngó đi nơi khác, đành nhẫn nhịn cúi gằm mặt xuống, vừa dự liệu ý đồ của y, vừa tỏ ra ăn năn hối lỗi để y đừng nổi giận.

Nếu chỉ có một mình Lý Công Uẩn, lẽ nào nàng lại tỏ ra khuất phục như thế; nay chuyện bỗng dưng có liên quan trực tiếp đến Ngô Bình, có phải toàn tâm toàn ý hạ mình trước mặt Long Đĩnh hay thậm chí là cả Cảm Thánh phu nhân để tranh thủ đổi lấy chút yên ổn cho Ngô Bình, tự bản thân nàng cũng cảm thấy rất đáng. Nàng dù chưa một lần nói ra, trong lòng từ lâu đã tự thừa nhận, với nàng, ngoài phụ thân ra, người nam nhân quan trọng nhất chính là Ngô Bình. Bản thân nàng thế nào cũng được, có gan phá phách thì phải có gan hứng chịu hậu quả, số phận an bài thế nào thì đành chịu thế ấy; nhưng còn với chàng, tuyệt đối nàng sẽ không để ai làm tổn hại đến, trừ phi là bước qua xác nàng. Si tình ngốc nghếch như nàng, trẻ con dại khờ như nàng, chàng biết hay không biết cũng chẳng mấy quan trọng; bởi vì nàng không kì vọng chàng cũng thích nàng, chỉ mong được âm thầm dõi theo chàng, nhìn chàng an bình yên ổn, thế là đủ.

Càng nghĩ đến tình cảnh hiện giờ, Yến Lan lại càng thấy hận. Ngọc Minh vương tử kia đột nhiên trở thành quận chúa, sớm biết người bị Cảm Thánh quản thúc là cô ta, nàng sẽ chẳng đời nào can thiệp; sớm biết thả cô ta ra rồi cô ta sẽ lại vào hoàng cung, nàng hiển nhiên thà rằng trở mặt cấp kì, chỉ bừa đường đi nước bước để cô ta bị tóm lại còn hơn. Cô ta từ chỗ Long Đĩnh mà bị bắt đi, cả anh trai nàng cũng không tìm lại được; thủ phạm to gan kia là ai, Long Đĩnh còn vài phần ngờ vực, chứ nàng thì tuyệt đối khẳng định, người đó chỉ có thể là Ngô Bình. Suy cho cùng, nếu nàng chẳng bốc đồng phá phách Cảm Thánh phu nhân, chàng lý nào lại phải đắc tội với Long Đĩnh. Một người lương thiện chân chính như chàng, làm sao đấu lại kẻ dã tâm khó lường như Long Đĩnh. Là nàng vô tình hại chàng mất rồi!

Yến Lan vì quá lo nghĩ cho Ngô Bình mà nhất thời quên mất tình cảnh trước mắt của bản thân, mãi đến khi Long Đĩnh lên tiếng gọi, nàng mới bàng hoàng sực tỉnh.

–       Nàng lại gần đây!

Giọng Long Đĩnh tuy đã có phần dịu lại, nhưng Yến Lan vẫn nghe ra đó là một mệnh lệnh, nàng chậm rãi bước đến, mắt cắm chặt xuống nền điện. Để tỏ ra bản thân không có ý chống đối, Yến Lan mím môi liều mạng đến thật gần, khi cách y chỉ còn một cái với tay, nàng mới dừng lại. Chẳng để y phải lên tiếng trước, nàng đã nhỏ giọng thú nhận:

–       Đại vương…à không…hoàng thượng, Yến Lan bốc đồng cạn nghĩ, không lường trước được hậu quả, xin hoàng thượng tha tội…

Long Đĩnh bật cười ngắt ngang, giọng chua chát:

–       Trẫm cứu mạng nàng, tạo điều kiện để anh em nàng gặp nhau, trước giờ đối với nàng không tệ, lại thật lòng xem nàng như em gái, nàng vì cớ gì mà cố ý can thiệp vào chuyện của trẫm?

Yến Lan tự thấy không dò nổi lòng dạ Long Đĩnh, tuy miệng y nói toàn điều nhân từ, nhưng một khi đã ra tay thì quyết không nửa phần nương nhẹ, nàng đành nói thật, giọng đã có chút run rẩy:

–       Tôi thấy ngài qua lại với kẻ thù của tôi, là bọn người Trần gia bang và Tản Viên sơn phái, nghĩ rằng…nghĩ rằng…

Yến Lan ấp úng chẳng dám nói ra, Long Đĩnh liền nói hộ nàng:

–       Nàng nghĩ trẫm liên kết với bọn họ, dàn cảnh lừa nàng về Hoa Lư để khống chế anh trai nàng?

Yến Lan sửng sốt ngẩng đầu nhìn y, song, lại nhanh chóng cúi gằm xuống, khẽ khàng gật đầu thừa nhận. Long Đĩnh lại bật cười nhạt, nói:

–       Nàng nghĩ lại đi, nếu nàng không tự miệng nói ra nàng là em gái của Lý tướng quân, trẫm làm sao biết được? Hôm nay không cần biết nàng có tin trẫm hay không, ngày ấy ở Cổ Pháp, trẫm thấy nàng có chút ưa nhìn mà cứu mạng nàng, tuyệt đối không hề có ý lợi dụng. Trần Linh là tay sai của trẫm, nhân lúc trẫm bận việc ở chùa Quỳnh Lâm, hắn dám có ý đồ khác, đến am Thanh Tịnh làm chuyện mờ ám. Trẫm chẳng qua muốn dằn mặt hắn nên mới can thiệp, cứu mạng nàng chỉ là vô tình. Hôm nay anh trai nàng ra mặt chống đối, trẫm vì tiếc cái tài của y mà không nỡ giết đi, buộc phải dùng nàng để uy hiếp. Toàn bộ câu chuyện là vậy, giờ trẫm cho nàng hai lựa chọn: hoặc là ở lại hoàng cung, thuyết phục anh trai nàng theo trẫm; hoặc là rời khỏi đây, về lại chỗ của nàng. Trẫm trước giờ không muốn lôi nhi nữ vào chuyện chính sự, hôm nay bất đắc dĩ lợi dụng nàng, giờ để nàng tự quyết, không ép nàng nữa. Nàng chọn đi!

Yến Lan như không tin nổi vào tai mình, hoài nghi lục đi lục lại lời vừa rồi của Long Đĩnh, cố hiểu theo một hướng nào đó khác mang hàm ý đe dọa hoặc lừa lọc, nhưng đầu óc nàng vốn là đã rối tung rối mù lên rồi, chẳng nghĩ được gì ra hồn nữa. Sau cùng, nàng đành thở dài chấp nhận thực tế, nếu y thực sự muốn đe dọa hoặc lừa gạt nàng, nàng cũng không có bản lĩnh đối phó; thôi thì, đành chọn cách có lợi cho y, mà cũng là có lợi cho nàng. Ở lại hoàng cung, nàng có thể nghe được tin tức của Ngô Bình, nếu chẳng may chàng bị bắt, nàng cũng có thể tận lực xuống nước xin Long Đĩnh tha cho chàng. Nghĩ vậy, Yến Lan bèn ngẩng đầu đáp lời. Tuy nhiên, nàng còn chưa kịp nói, Trương Tuấn từ bên ngoài đã xô cửa xông vào, giọng run run khẩn cấp:

–       Hoàng thượng, Nhân Trí Vương phóng hỏa đốt cháy cả phủ đệ rồi!

Ở khoảng cách rất gần, chỉ bằng một cái với tay, Yến Lan lập tức nhận thấy ánh mắt Long Đĩnh tối sầm lại, mặt đầy nộ khí, cả người gồng lên, gân chằng chịt nổi đầy. Y hung bạo đấm thẳng xuống tay ngai kêu rầm một tiếng thật lớn rồi đứng bật dậy, quát:

–       Phong tỏa mọi ngả ra vào thành Hoa Lư! Không bắt được quận chúa trở về thì đừng đến đây gặp ta nữa!

Yến Lan không khỏi giật mình run sợ, loạng choạng lùi lại vài bước né tránh cơn thịnh nộ điên cuồng của Long Đĩnh. Khoảnh khắc nàng nhìn thấy tay ngai bị gãy một mảng lớn, mảnh gỗ vỡ văng tung tóe trên nền điện trộn vào lớp vàng dát cũng đã bị bể vụn dưới cú đấm uy lực vừa rồi, lại thấy nắm tay phải của Long Đĩnh rách toạc rướm máu, cũng chính là khoảnh khắc nàng động tâm nhận ra, kẻ mê muội đến cuồng loạn cô gái kia không phải chỉ có mỗi Công Lục và Ngô Bình.

Từ lúc đó, đối với nàng, nhân sinh sau cùng chỉ tồn tại một loại người, đều là loại đau khổ vì tình, dẫu có theo nhiều cách khác nhau.

Đêm đó nàng ở lại điện Trường Xuân, co ro ngồi mãi một góc, hồi hộp chờ đợi tin tức. Long Đĩnh cũng như nàng, cả đêm không ngủ, bất động yên vị trên ngai, sắc mặt lạnh lùng, ánh mắt u uất. Chẳng ai màng đến sự có mặt của ai, nội điện rộng lớn thừa chỗ để mỗi người một góc, có thể nhìn thấy nhau nhưng thực chất lại là hoàn toàn cách biệt. Cuối cùng thì, nàng và đế vương kia cũng có điểm chung, đều si tình người không nên si tình, đều gặm nhấm tổn thương trong cô độc.

Từ tối mịt đêm hôm trước đến chiều muộn ngày hôm sau, Trương Tuấn mới lại xuất hiện ở hoàng cung. Y bộ dạng thảm hại, người ngợm đầy vết trầy xước, quỳ sụp dưới chân Long Đĩnh, kể lại chuyện đã xảy ra ở khu rừng ngoài thành Hoa Lư. Nằm ngoài dự đoán của nàng, lần này Long Đĩnh bình thản lạ lùng, không có lấy một chút giận dữ. Khi Trương Tuấn nói đến kẻ đi cùng quận chúa dùng môn kiếm pháp kì quái hệt như Lý Công Uẩn, Long Đĩnh nhếch mép cười nhạt, dư vị chua xót hằn lên khóe môi. Lúc ấy, Yến Lan cũng cảm thấy tim mình như thắt lại, quả nhiên, người đưa Như Như trốn chạy chính là Ngô Bình. Dẫu đã nghi ngờ từ trước, nay vẫn không thể đối diện với sự thật mà không bị tổn thương, nàng vội vàng đưa tay chặn ngang mi mắt, ngăn không cho mình rơi lệ.

Lại một đêm nữa nàng mất ngủ, tâm tư quay cuồng giằng xé. Nàng biết rất rõ kẻ ám toán nhóm người Trương Tuấn là ai, cũng biết rất rõ khu rừng ấy dẫn đến đâu. Cuộc đời này tưởng chừng phức tạp nhưng đôi khi lại đơn giản đến không ngờ. Thay vì ngồi yên một chỗ, đau khổ tổn thương vì tình, chi bằng tìm cách chia rẽ họ. Chỉ cần Như Như quay về với Long Đĩnh, nàng sẽ lại có cơ hội mộng tưởng, chỉ cần nàng tận lực xoay chuyển, biết đâu kết cục cuối cùng sẽ là bốn người hạnh phúc. Cái suy nghĩ ấy của nàng, tự bản thân nàng cũng thấy ngây ngô đến nực cười. Thế nhưng, không thử làm sao biết kết quả là gì, huống hồ, chàng vẫn còn chưa hay nàng sâu đậm ra sao, nặng lòng ra sao. Biết đâu, khi chàng hay cả rồi, chàng cũng sẽ yêu nàng như nàng đang hết mực nghĩ về chàng.

Gà gáy canh tư, Yến Lan mạnh dạn bật dậy, thu dọn hành lý rồi đến điện Trường Xuân cầu kiến. Ngay vào lúc quyết định rời khỏi hoàng cung, nàng đã đánh mất một nửa tâm hồn để đổi lấy dối trá cay đắng rồi.

Chiều muộn, từng tia sáng nhạt màu cuối cùng hắt chút ánh tàn le lói, bóng lá nương theo vệt nắng in xuống nền gạch hành lang ngay trước điện Trường Xuân. Cánh cửa gỗ rộng mở, chếch lệch hướng nắng, ánh sáng vì thế không vào được bên trong nội điện, nơi một chiếc ngai và một con người cô độc đang chìm hẳn vào bóng tối.

Người ngồi trên ngai vàng, lại có cảm giác sức nặng của ngai vàng đè ngược lên vai. Đã liên tục suốt gần hai mươi canh giờ, Long Đĩnh không hề rời khỏi vị trí ấy, cũng trong bằng ấy thời gian, y không đếm nổi mình đã nhếch mép cười nhạt bao nhiêu lần. Nụ cười đến rồi đi, dư vị chua xót và tâm trạng nặng nề vẫn trơ lì bám trụ lại. Hôm nay y đi đến bước đường bất nghĩa này, dẫu không có gì để hối hận, cũng chẳng có gì để oán trách, nhưng tự bản thân y lại cảm thấy thương tổn nặng nề. Nỗi đau cứ mãi nằm đấy, thẳm sâu trong tim y, nơi trước nàng chưa từng có ai chạm đến, sau nàng sẽ không còn ai có thể chạm đến; nhưng tàn nhẫn thay, ngay cả nàng dù được y thật lòng đón nhận, vẫn một mực không muốn chạm đến. Y tổn thương chẳng phải vì y không hiểu, mà trái lại, là vì y hiểu quá rõ. Mọi thứ trước mắt y bây giờ, tất cả đều có trật tự, tất cả đều rất rõ ràng mà không cần đến ánh mặt trời. Người mãi mãi không hiểu, mãi mãi không chịu hiểu, chính là nàng.

Long Đĩnh cụp đôi mi mắt trĩu nặng xuống, chân mày nhíu lại thật chặt, trút ra một hơi thở sâu không thành tiếng, tâm tư lạnh lẽo u ám nêm chặt bởi duy nhất một ý nghĩ: “Nàng thật sự chưa bao giờ hiểu ta cả!”

Một viên nội quan bỗng dưng bước vào, có hơi sững sờ dừng chân trước khung cảnh u ám không một bóng nến bên trong điện Trường Xuân, sau cùng cũng tiếp tục thản nhiên tiến đến hành lễ rồi nói:

–       Hoàng thượng! Hoàng hậu Cảm Thánh cầu kiến!

Long Đĩnh trở mình ngồi tựa hẳn vào ngai, giọng khô khốc:

–       Cho vào!

Viên nội quan lập tức hành lễ rồi lui trở ra, ngay sau đó, hoàng hậu Cảm Thánh bước vào. Nàng khép chặt hai cánh cửa lại, kiên nhẫn tự tay thắp lửa vào từng chiếc đèn bên trong điện Trường Xuân. Không gian thinh lặng như tờ, cả nội điện bừng sáng.

Cảm Thánh từ đầu đã không vào một mình, nhưng phần vì bóng tối chập chùng, phần vì không quá để tâm, mãi đến lúc này Long Đĩnh mới nhìn thấy một thị nữ đang đứng trong góc, trên tay bưng khay gỗ có hai cái bát bốc khói nghi ngút. Cảm Thánh thắp xong chiếc đèn cuối cùng liền thoăn thoắt di chuyển đến chỗ thị nữ ấy, cầm lấy khay gỗ, đồng thời lệnh cho cô ta lui ra ngoài. Đoạn, nàng tiến đến chỗ Long Đĩnh, quỳ xuống, nói:

–       Thần thiếp chờ triệu kiến từ hai ngày trước, nghe đám cung nữ nói hoàng thượng hai đêm liền không ngủ, ăn uống lại qua loa, sau lễ đăng cơ thì ở hẳn trong điện Trường Xuân. Thần thiếp vừa lo lắng vừa day dứt, tự nhủ bản thân không chu toàn phận sự, khiến hoàng thượng chán ghét không muốn gặp, đành mạo muội đến xin chịu tội.

Long Đĩnh nói:

–       Nàng đứng lên đi! Ở đây không có bọn hạ nhân, việc gì phải như thế?

Cảm Thánh thận trọng bưng khay gỗ đứng dậy, điềm nhiên bước thẳng đến chỗ Long Đĩnh, đặt cái khay lên bàn rồi dịu giọng van nài:

–       Chàng nếu đã có lòng xem thiếp trọng hơn mấy thứ lễ nghi kia, xin cũng hãy vì chút lòng đó mà bảo trọng thân thể. Đại sự trước mắt chỉ mới ở bước khởi đầu, nếu chàng chẳng may có bề gì, mẹ con thiếp biết làm sao xoay chuyển. Cháo hoa cúc và canh mướp đắng này đều là những món chàng thích, lại do tự tay thiếp làm…

Nàng chỉ vừa nói đến đó, Long Đĩnh đã phất tay lệnh cho nàng dừng lại. Y nhìn nàng một lúc thật lâu, sau cùng cũng tự cầm lấy bát cháo, chậm rãi ăn trước mặt nàng. Cảm Thánh im lặng nhìn Long Đĩnh dùng bữa, ánh mắt long lanh, môi cười nhẹ nhõm. Y dùng nốt bát canh rồi lại quay sang nhìn nàng, chân mày có hơi chau lại, lãnh đạm nói:

–       Điện Long Lộc của nàng ở ngay sát điện Trường Xuân, hẳn đã nghe bọn Trương Tuấn nói này nói nọ rồi phải không?

Cảm Thánh nhẹ gật đầu, đáp:

–       Trương Tuấn trước khi đưa Yến Lan rời cung có đến gặp thiếp, nói là tướng quân Lý Công Uẩn theo lệnh đến chùa Nhất Trụ rồi lại ngang nhiên không chịu quay về. Thiếp sợ chàng trong lúc nóng giận hạ lệnh giết y, hoặc lỡ làm điều gì hại đến gia quyến của y, đành to gan tìm đến đây gặp chàng.

Long Đĩnh cười nhạt, nắm tay siết chặt lại, nói:

–       Nàng hiểu trẫm như vậy, lẽ nào lại sợ trẫm làm hỏng việc lớn. Trừ phi nàng còn nghe được chuyện gì khác nữa!

Cảm Thánh cúi đầu nhìn xuống, môi mím chặt băn khoăn một lúc lâu, sau cùng cũng nhỏ giọng thừa nhận:

–       Thiếp còn nghe y nói đến chuyện của…Ngọc Minh vương tử.

Long Đĩnh một tay vẫn siết chặt, tay còn lại đặt lên vai Cảm Thánh, lay lay trấn an:

–       Trẫm từ hôm bảo nàng trông chừng cô ta ở Nam Phong Vương phủ, đã có ý muốn để nàng tự nhìn ra chân tướng. Cô ta rời bỏ trẫm, hoàn toàn không phải lỗi của nàng; bản thân trẫm cũng sẽ có cách khiến cô ta tự nguyện quay lại. Nàng không phải quá lo lắng về chuyện đó nữa.

Nói đến đây, Long Đĩnh lập tức thu tay về day day hai bên huyệt thái dương, nói tiếp:

–       Còn về phần Lý Công Uẩn, giết cũng không được, giữ cũng không xong, thật quá khó xử. Hắn ngang nhiên chống đối trẫm, nếu không có đám tăng nhân và quá nửa bọn đại thần từng ủng hộ Nam Phong Vương nối ngôi đứng sau chống lưng, trẫm lẽ nào lại nhượng bộ mà chừa đường sống cho hắn? Bây giờ muốn lôi hắn về hoàng cung cũng đã rất khó, đừng nói đến việc thu phục nhân tâm.

Cảm Thánh chau mày suy tư một lúc, đáp:

–       Thiếp thấy, người như thiền sư Vạn Hạnh chắc chắn sẽ biết cân nhắc nặng nhẹ. Ông ấy giữ chân Lý tướng quân ở lại chùa Nhất Trụ, e rằng không phải mở đường cho tướng quân làm phản, mà là vì mục đích khác. Chuyện ở am Thanh Tịnh mấy tháng trước, chắc hẳn tướng quân vẫn còn nghĩ là do hoàng thượng sai bọn Trần Gia Bang làm, nếu bây giờ hoàng thượng giải tỏa được khúc mắt ấy, đồng thời tìm cách xoa dịu đám tăng nhân, thiền sư lập tức sẽ để Lý tướng quân quay về đây.

Long Đĩnh đứng bật dậy, đi đi lại lại ra vẻ đắn đo, đầu bất giác nghĩ ngay đến bí kíp lạ lùng mà Trần Linh đã lấy cắp được ở am Thanh Tịnh. Muốn hóa giải khúc mắt giữa y và Công Uẩn về cái chết của Hắc Diện phu nhân, xem ra chỉ còn biết trông chờ vào bí kíp ấy; còn như làm thế nào để xoa dịu đám tăng nhân, y thật sự không nghĩ ra. Suy tính một hồi, chợt nhận thấy Cảm Thánh vẫn đang kiên nhẫn chờ đợi, nét mặt phẳng lặng, ánh mắt long lanh_ thần thái chứng tỏ nàng ta đã có cao kiến, Long Đĩnh bèn hướng ra phía cửa gọi viên nội quan vào, hạ lệnh:

–       Đến chùa Nhất Trụ truyền chỉ, nếu Lý Công Uẩn không về, trẫm sẽ cho người đốt sạch di vật của mẹ hắn ở am Thanh Tịnh.

Viên nội quan nọ rời khỏi rồi, Long Đĩnh lại quay sang hỏi Cảm Thánh:

–       Trẫm chỉ có thể nhất thời lôi hắn về đây, còn sư phụ hắn quả thật không biết phải đối phó thế nào. Nàng nếu đã có cao kiến thì mau nói xem!

Cảm Thánh đáp:

–       Trong nước hiện nay Phật giáo rất mạnh, các tăng nhân có nhiều người được dự vào việc triều chính; phần lớn các đại thần cũng đều thờ Phật. Bản thân hoàng thượng lại không theo tín ngưỡng ấy, từng nhiều lần kiến nghị với phụ hoàng thay đổi quy chế triều chính theo Nho giáo như nhà Tống ở phương Bắc, nhằm giảm bớt quyền hành của các tăng nhân và lão thần mà tập trung triệt để vào tay hoàng tộc. Các đại thần và tăng nhân hiển nhiên không mong đợi điều đó, bèn ủng hộ người dễ giật dây như Nam Phong Vương nối ngôi. Nay hoàng thượng giết Nam Phong Vương, vô tình tạo cớ cho bọn họ thừa cơ đưa đẩy, dựa vào nhân nghĩa mà chống đối đến cùng, chung quy đều vì lo sợ hoàng thượng sẽ theo quy củ Nho giáo, tước đi quyền lực của bọn họ. Hiện giờ muốn tạm thời vỗ yên đám tăng nhân và lão thần, chỉ còn cách nhượng bộ, tỏ ra có thiện chí với Phật giáo để trấn an họ.

Long Đĩnh gật đầu, nói:

–       Trấn an mầm loạn trong nước trước, loại dần bọn chúng ra khỏi triều đình. Sau đó, thường xuyên cho tâm phúc đi sứ sang Tống học hỏi, đặt lại mối bang giao chặt chẽ với họ, rồi dần dần chuyển sang quy chế triều chính như của họ, nhằm tập trung mọi quyền lực vào tay hoàng tộc. Nhưng cái khó là, trẫm không thể chờ cho bọn quốc sư và đám lão thần chết già cả rồi mới thay đổi quy củ triều chính. Càng cho bọn chúng nhiều thời gian, bọn chúng càng cố tranh thủ xoay chuyển tình thế, đến khi mọi thứ đều đã vào khuôn phép cả, trẫm có muốn thay đổi cũng không được. Có cách nào vừa có thể xoa dịu bọn chúng, vừa có thể cho người sang Tống chuẩn bị không?

Cảm Thánh mỉm cười, đáp:

–       Thần thiếp được biết Phật giáo ở nước ta vẫn còn thiếu một thứ rất quan trọng, thứ đó lại có ở đất Tống, chính là kinh Đại Tạng (1). Nay nếu hoàng thượng vẫn sai người đi sứ sang Tống chuẩn bị cho việc thay đổi quy củ triều chính, nhưng trên danh nghĩa lại là xin kinh Đại Tạng về mở mang quốc giáo trong nước, các tăng nhân và lão thần sẽ không có cớ phản đối, đồng thời sẽ dần bị lung lạc mà nội bộ tự sinh bất đồng, không thể gây khó dễ cho hoàng thượng được nữa. Về sau, khi các lão thần đã tự tan rã rồi, nếu vẫn còn lo ngại các tăng nhân, hoàng thượng chỉ cần lấy cớ sai người sang Tống xin họ cho chúng ta một số quyền lợi về trao đổi buôn bán (2), sẽ vừa tranh thủ được sự ủng hộ của đám thương buôn lắm tiền nhiều của, vừa danh chính ngôn thuận phát triển việc buôn bán trong nước, các tăng nhân sẽ không có lý do gì để phản đối. Lúc đó, chỉ cần khéo léo chọn thời điểm thích hợp, việc thay đổi quy chế triều chính ắt sẽ thành công.

Cảm Thánh càng nói, sắc mặt Long Đĩnh càng sáng lên phấn khởi, mọi lo toan trước đó tựa hồ đã vơi đi quá nửa. Y chờ cho Cảm Thánh nói xong, mấy lời tán thưởng còn nằm ngay cửa miệng chưa kịp bật ra thành tiếng, viên nội quan bên ngoài đã tiến vào bẩm báo:

–       Hoàng thượng! Lý tướng quân đã về đến trước điện Trường Xuân rồi!

Long Đĩnh hạ lệnh triệu kiến rồi quay trở lại bộ dạng lãnh đạm thường ngày, y chỉ tay vào sau bức rèm, nói với Cảm Thánh:

–       Nàng tạm lui vào đó, chú ý nghe thật kĩ từng lời của trẫm và hắn!

Cảm Thánh cúi người hành lễ, nhanh chóng rút vào sau. Nàng vừa khuất bóng, cũng là lúc hai cánh cửa gỗ khép chặt dẫn vào điện Trường Xuân bị đá cho bật mở tung ra, đập vào bức vách đánh ầm một tiếng chấn động.

 

Chú thích:

(1)  Kinh Đại Tạng: Đại Tạng Kinh hay Tam Tạng Kinh Điển hay Tam Tạng Thánh Giáo là tên gọi chỉ cho toàn bộ kinh điển Phật giáo đã được hệ thống hóa trong cùng một ngôn ngữ, bao gồm 3 tạng: Kinh, Luật, Luận. Từ hai ngôn ngữ gốc được dùng để ghi chép kinh điển là Sanskrit và Pali, kinh điển Phật giáo hiện nay đã được dịch ra nhiều ngôn ngữ trên thế giới nên cũng đã có nhiều Đại Tạng Kinh với ngôn ngữ khác nhau. Tuy nhiên, do các yếu tố hoàn chỉnh, hệ thống và ảnh hưởng lịch sử mà các Đại Tạng Kinh Pali, Trung Hoa và Tây Tạng có giá trị vượt trội hơn.

Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, năm Ứng Thiên thứ 14 (1007), Lê Long Đĩnh sai em là Minh Xưởng và Chưởng thư kí là Hoàn Thành Nhã sang Tống dâng tê ngưu trắng và xin kinh Đại Tạng về mở mang Phật Giáo trong nước. Đến năm Cảnh Thụy thứ 2 (1009), kinh Đại Tạng về đến Đại Cồ Việt.

(2)  Việc trao đổi buôn bán với Tống: Năm Cảnh Thụy thứ 2 (1009), Lê Long Đĩnh sai sứ đem biếu nhà Tống con tê ngưu thuần rồi xin áo giáp mũ trụ dát vàng, vua Tống bằng lòng cho; lại xin được đặt người coi việc tại chợ trao đổi hàng hóa ở Ung Châu, nhưng vua Tống chỉ cho mua bán ở chợ trao đổi hàng hóa tại Liêm Châu và trấn Như Hồng.

Hình đại diện của Không hiểu

Tác giả: Mộc Hân

"Phiến đá người thợ xây loại bỏ, sẽ trở nên đá tảng góc tường." "The stone that the builders rejected has become the cornerstone" Kinh Thánh Tân Ước - The New Testament - Matthew 21, 42

Bình luận về bài viết này