Gió quật rào rào, rừng đen thăm thẳm, Hoàng Liên Sơn sương giá rét buốt, đi mãi vẫn không thấy mặt trời. Bốn bề ngày thì sương giăng, đêm thì đen đặc, quanh năm gió thốc thét gào, tưởng như bất cứ lúc nào cũng có thể thổi bay mấy cụm trúc rừng kiên trì bám rễ vào thứ đất bùn vừa ẩm vừa lạnh. Ngô Bình cố gắng nhấc chân, kéo lê thân người trong cái lạnh ngập thấu xương thịt. Sương đêm từng lớp từng lớp cuộn quấn cơ thể, thấm nặng qua mấy lớp quần áo, hàn khí xông vào liếm trọn từng mảng da thịt, cái rét thấm đến đâu lại theo máu lan đi nhuộm lạnh cơ thể đến đó. Ngô Bình kiệt sức, tưởng như tay chân đều đã đông cứng cả, tai lại không thể nghe thấy gì khác ngoài tiếng gió rừng ào ào xối xả; chàng giật mình ngó dáo dác tứ phía, đều là không đuốc không đèn, không lửa không khói, hai tay liền theo phản xạ quờ quạng điên cuồng, đáp lại chỉ có mấy nhành cây lạnh giá đập quẹt vào mười đầu ngón tay. Chàng toan la lên thật to, mới cảm thấy cổ họng cũng đã đông cứng tự bao giờ. Có lẽ, âm giọng thì thào của chàng đã chìm hẳn vào trong tiếng gió núi hung hãn.
Gió càng lúc càng thổi mạnh, tưởng như có thể đẩy cả người ngã nhào xuống vực, Ngô Bình vội vàng bám chặt vào mấy nhành trúc trơn tuột, ra sức giữ thân thăng bằng trên mặt đất. Rồi đột nhiên, mặt đất biến mất, chàng thấy mình lơ lửng trên không trong một khoảnh khắc vô cùng ngắn ngủi trước khi hụt chân rơi vụt xuống …
Ngô Bình hốt hoảng ngồi bật dậy, không gian xung quanh bất ngờ chuyển thành nhờ nhờ sang sáng. Gió vẫn thổi không ngừng, lều bạt màu rêu nhuộm thành màu xanh thẫm dưới ánh sáng yếu ớt hắt ra từ vài ba chiếc đèn dầu treo lắc lư trên nóc theo nhịp đong đưa rung lắc của mấy thanh trúc dựng lều. Ngô Bình chống tay ngồi hẳn dậy, ngơ ngác ngó nghiêng một lúc, thấy mấy người Phùng Tửu, Tòng Phương, Xuân Lan, Yến Lan và Như Như vẫn còn đang say ngủ, mới dám thở phào khẳng định mình đã thoát khỏi giấc mơ sinh động vừa rồi.
Từ ngày rời khỏi tộc Khau Phạ để đi Hủa Xi Pan đến nay vừa tròn nửa tháng, không có đêm nào chàng yên giấc, không có đêm nào không mộng mị. Đường đi càng lúc càng hiểm trở, qua hết quãng đồi này lại đến quả núi khác, bóng dáng đỉnh Trời sừng sững chắn ngay trước mắt mà mãi chẳng đến nơi. Thế nhưng, độ vài ba ngày gần đây, quang cảnh ngày ngày sương giá phủ đầy, vừa khi tối sầm tối xịt mới hay đã vào lúc hoàng hôn, khiến cho ngay cả mặt trời còn không thể nhìn thấy, đừng nói gì đến núi với non. Thành thử, lúc tinh thần và thể chất đều tỉnh táo, chuyện Nhật Lão đang bị giam cầm ở nơi khí trời khắc nghiệt lẫn vào sơn lam chướng khí khiến Ngô Bình không thể an lòng; lúc mệt mỏi tay chân rã rời, chỉ muốn vùi người vào chăn ngủ một mạch đến sáng, chuyện đi mãi chẳng đến nơi lại khiến chàng không thể an giấc. Mỗi lần thức dậy đều là mỗi lần hụt chân rơi xuống, ngày này qua ngày khác dai dẳng lặp lại, đều đặn lặp lại, cũng giấc mơ ấy, cũng thời khắc ấy, chàng kéo được mình rời khỏi giấc mộng rồi lại không thể cầm nổi thở dài dao động. Đoạn, vẫn như mọi đêm, suy nghĩ hoang đường lại lần nữa lướt qua trong đầu chàng: “Phải chi mình có cánh!”
Chợt, một giọng nhi nữ miền núi vang lên:
– Ngô công tử vẫn không ngủ được sao?
Ngô Bình ngoảnh đầu nhìn sang, thấy A Chân ở mép lều bên kia đang lò mò ngồi dậy, chàng bèn lắc đầu thay lời đáp rồi gượng cười méo mó, tay kéo bừa tấm chăn trùm quấn quanh người cho đỡ lạnh.
A Chân rón rén lách mình theo vách đi đến chỗ Ngô Bình, cũng là nơi kề sát cửa lều. Chàng liền nhích người sang chừa chỗ cho cô, nhưng cô không ngồi vội mà lại vươn tay kéo nhẹ mép tấm liếp dày thô, ghé mắt ngó ra bên ngoài. Đợi một lúc, sau khi A Chân chỉnh kín lại lều bạt rồi ngồi xuống cạnh bên, chàng mới hỏi:
– Cô vừa nhìn cái gì thế?
A Chân nháy mắt khích lệ:
– Đỉnh núi Trời đã ở ngay trước mặt rồi!
Ngô Bình bật cười, xua tay:
– Đêm nào cô chả nói thế! Ròng rã hơn mười ngày rồi vẫn chẳng thấy đâu là đâu.
A Chân mỉm cười, mắt chăm chăm nhìn một con bọ nhỏ xíu đang bò rề rề trên vách lều, thản nhiên nói:
– Tại các anh không quen địa hình ở đây nên đi chậm đó thôi. Nhưng anh đừng lo, muộn nhất là qua giờ Ngọ ngày mai chúng ta sẽ đến nơi.
Ngô Bình thở hắt một hơi, hạ giọng áy náy:
– Đường đi hiểm trở, khí trời giá rét, tại sao Hà tù trưởng không để người khác dẫn đường mà cứ nhất thiết phải là cô?
A Chân bưng miệng cười khúc khích, nói:
– Là tôi một mực xin tù trưởng cho tôi dẫn đường lên Hủa Xi Pan đấy! Các anh không biết chứ, bất kì thiếu nữ nào ở Khau Phạ cũng đều mong muốn một lần được lên đỉnh núi Trời, được Thần Nữ chúc phúc. Huống chi, tôi lạ là…lại là…
Đến đây, A Chân đột nhiên chuyển sang bẽn lẽn cười gượng gạo, miệng ấp a ấp úng không nói nên lời. Ngô Bình đang ngơ ngác khó hiểu, giờ lại càng khó hiểu gấp bội, liền không cầm nổi lên tiếng hối thúc:
– Là gì?
A Chân cúi gằm mặt xuống giấu vào hai lòng bàn tay, nhưng rất nhanh sau đó lại ngẩng lên, cặp mắt to tròn nhìn Ngô Bình dò xét, miệng lí nhí ra điều kiện:
– Không được cười tôi đấy nhé!
Ngô Bình chần chừ một lúc, không biết có nên nghe tiếp hay không, nhưng vì A Chân trông có vẻ vừa nghiêm túc lại vừa muốn thổ lộ, chàng bèn gật đầu chấp thuận. A Chân đảo mắt ngó đi nơi khác, mặt hơi nhăn nhăn xấu hổ, nói thật khẽ:
– Trước đây tôi từng là Tiểu Thần Nữ, nhưng vì võ công quá đỗi kém cỏi, học mãi không sao thích ứng được với mọi người, mới bị đuổi trả về thị tộc. Sau Tù trưởng thấy tôi nhanh nhẹn tháo vát, sợ trả tôi về nhà rồi cha mẹ tôi sẽ không vui, bèn giữ tôi lại hầu hạ Ý phu nhân. Hôm nọ, nhờ các anh bày mưu lật mặt tên họ Đỗ, tôi cũng có dự phần bắt giữ hắn ta, bèn nghĩ đây chính là cơ hội để tôi lên núi khẩn cầu Thần Nữ thu nhận lại. Kiểu nhi nữ như tôi, từ nhỏ đã sống ở đền thờ Thần Nữ, giờ bị trả về nhà thì thật là thảm họa.
Lời lẽ đấy của A Chân khiến Ngô Bình không khỏi kinh ngạc. Chờ cô dứt lời, chàng liền cảm thán:
– Võ công của cô mà gọi là kém cỏi được sao? Nhưng cứ cho là vậy, thì tại sao đã không thể thích ứng lại còn phải xin được nhận lại? Cô…không thích sống cùng bà ngoại tôi à?
A Chân rầu rĩ thở dài, nét tươi tắn thoắt tan biến đi mất:
– Không phải là tôi không thích Ý phu nhân, nhưng chỉ vì tôi bị trả về mà cả họ cả tộc đều xem thường gia đình tôi. Nếu lần này tôi được nhận lại, cha mẹ anh chị tôi sẽ không bị xa lánh ghét bỏ nữa.
Ngô Bình ngẩn người câm lặng, nét mặt phảng phất chút hoang mang khó chịu. Chàng thầm nghĩ:
“Từng nghe người miền núi chân chất phóng khoáng, lý nào lại sĩ diện đến hoang đường như thế? Không lẽ chỉ vì chuyện có liên quan đến tín ngưỡng? Đền thờ Thần Nữ với người Khau Phạ thật ra là chốn nghiêm ngặt linh thiêng đến mức nào? Sắp tới liệu có dễ dàng giải thích chuyện ân oán của ông ngoại với những người trông giữ đền thờ không? Cứ dựa vào thái độ này của A Chân, chỉ e sẽ còn phát sinh thêm nhiều chuyện lôi thôi phức tạp. Còn vị Thần Nữ kia nữa, thật ra là người như thế nào?…”
Tựa như từ trong vô thức, đã hơn hai năm nay, không khi nào Ngô Bình không bị chuyện Nhật Lão làm cho ám ảnh. Dù cuối cùng chàng cũng đã biết tung tích của ông, nhưng hành trình giải cứu lại cứ nối dài phức tạp, dần dần dẫn lên tận đỉnh Hủa Xi Pan_ đỉnh núi cao cheo leo hiểm trở đi mãi không thấy mặt trời. Ngày này qua ngày khác, nỗi ám ảnh trong chàng, cộng gộp với tâm lý nôn nóng và trạng thái lo âu nặng nề, đã biến hẳn thành một phản xạ hết sức cực đoan: hễ cứ nghe ai kể về điều gì bất thường, chàng cũng có thể vô thức liên hệ sang chuyện Nhật Lão; dù thật ra lần này, mối lo ngại về những luật buộc khắc nghiệt của tín ngưỡng tộc Khau Phạ, nhất là khi Nhật Lão lại đang bị giam giữ tại đền thờ Thần Nữ, suy cho cùng cũng không hẳn là một mối lo vô căn cứ.
A Chân thấy Ngô Bình bỗng dưng chuyển sang trầm tư lơ đãng một hồi, bèn chột dạ gọi rối gọi rít.
– Ngô công tử! Ngô công tử! Có gì không ổn sao?
Vừa hay ngoài trời đã nín gió, không gian dần chuyển mình từ tối mịt mù sang tờ mờ sáng, A Chân đang lúc lo lắng nên không kiềm chế âm giọng, mấy tiếng kêu gọi thảng thốt của cô chẳng những cắt đứt dòng suy tư của Ngô Bình mà còn làm cho mọi người trong lều bừng tỉnh giấc. Ai nấy lồm cồm bò dậy, kẻ hốt hoảng theo phản xạ chụp vội vũ khí, người bình tĩnh hơn thì đảo mắt ngó tứ phía. Sau cùng, nhận ra trong lều chỉ có chút xáo trộn quen thuộc, A Chân không nằm ở chỗ cũ nữa mà đã dời sang ngồi gần cửa lều nói chuyện với Ngô Bình, ai nấy mới có thể thở phào nhẹ nhõm.
Phùng Tửu tam gia lên tiếng trước tiên, giọng nửa đùa nửa thật:
– Hắn thì có gì mà không ổn? Riết rồi ta thấy hắn chẳng cần phải ngủ mà vẫn cứ khỏe như trâu. Cô thấy đó, A Chân, ngày nào hắn cũng nhanh nhảu vượt lên trên cả cô, có cần ai dẫn đường cho đâu. Hôm nay toại nguyện rồi nhé, qua giờ Ngọ là đến nơi nhé!
Đoạn, Phùng Tửu vươn vai ngáp một cái rõ dài rồi thong thả dứng dậy soạn đồ đạc. A Chân không màng ngó theo, chỉ ngán ngẩm thở ra rồi đưa tay che miệng, nói khẽ với Ngô Bình:
– Lại nghe lén chúng ta nói chuyện! Nếu không, sao lại biết qua giờ Ngọ hôm nay sẽ đến nơi chứ!
Ngô Bình không nén nổi phì cười, nói:
– Người già thường ngủ không nhiều. Huống chi, tôi nghĩ tam gia thật ra có ý tốt, cố tình để tâm nghe ngóng, canh giấc cho mọi người đấy!
A Chân mỉm cười tán đồng, nhưng mắt lại liếc nhìn sang phía Phùng Tửu, nhăn mặt một cái rồi quay lại nghịch ngợm lè lưỡi nhún vai. Ngô Bình lắc đầu cười trừ, vừa tranh thủ thu dọn đồ đạc vừa hạ giọng hỏi tiếp:
– Mấy người chúng ta đi trước thế này, độ chừng bao lâu nữa thì nhóm người của tù trưởng áp giải Đỗ Hòa đi sau mới đuổi kịp?
A Chân đáp, giọng trấn an:
– Bọn họ toàn thanh niên trai tráng, ai cũng rành đường lên núi, tính ra đi sau chúng ta chỉ vài canh giờ, nếu không có gì trục trặc, có lẽ sẽ đến cùng một lúc đó!
Ngô Bình dừng tay xếp đồ, im lặng nhìn A Chân. Ánh mắt chàng trong vắt thản nhiên, vẻ mặt điềm đạm yên ổn, kì thực trong đầu lại đang đắn đo không biết có nên hỏi chi tiết hơn về luật tục ở đền thờ Thần Nữ không. Sau cùng, sợ lại gợi buồn cho A Chân, chàng quyết định không hỏi gì nữa, chỉ gật đầu cảm kích nói:
– Cảm ơn cô!
A Chân có hơi bất ngờ, cặp chân mày thoáng chau lại, nhưng rất nhanh sau đó, cô mỉm cười gật đầu với Ngô Bình rồi thoăn thoắt đi về chỗ thu dọn đồ đạc.
Lều bạt được hạ xuống gọn gàng, trạm nghỉ lại trả về với trạng thái cũ: mội cái chõng trúc thấp chắc rộng đóng cứng vào nền đất, bốn chân kê lấp đầy đá tảng xanh đỏ, bên trên chỉ có vòm trúc xanh mướt thấm ướt sương núi rũ xuống làm mái che. Ngô Bình đứng vững trên chõng, tháo nốt nút buộc cuối cùng của sợi dây treo lều trên một thân cây trúc trơn bóng, không quên ngẩng đầu nhìn trời như thường lệ. Một tia nắng trong vắt bất ngờ xuyên qua mấy tầng kẽ lá rọi thẳng vào mắt chàng, tuy không quá chói chang nhưng cũng đủ để chàng sửng sốt nheo mắt tránh đi. Ngay sau đó, chàng không kiềm được vui thích, bèn phấn khởi reo lên:
– Nắng! Có nắng lại rồi!
Chàng vừa dứt lời, mọi người cùng bật cười đầy sảng khoái. Rồi không ai bảo ai, trừ A Chân ra, tất cả đều vừa dọn đồ vừa tranh thủ đảo mắt quan sát khung cảnh xung quanh. Đã có thể nhìn thấy vòm trời xanh trong mượt mà phủ lên trên tầng lá trúc màu lục nhạt, đã có thể nhìn thấy dáng núi sừng sững phía đông chắn gần hơn bao giờ hết với mặt trời lấp ló mới kịp khoe ra một mẩu nhỏ xíu chói chang, đã có thể nhìn thấy sương trắng chỉ còn là một màn mỏng là đà mờ ảo bám sát nền đất ẩm lạnh, ai nấy đều phấn chấn hẳn lên, tiếng cười nói cũng rộn rã hơn mọi ngày. Đến lúc này, Ngô Bình mới dám khẳng định, vừa nãy A Chân đã nói thật chứ không phải chỉ để khích lệ chàng: muộn nhất là qua giờ Ngọ, chàng sẽ được gặp lại Nhật Lão.
Gió ngừng thổi được một chốc, sau gần chục dặm lại tiếp tục vù vù bên tai. Đường đi càng lúc càng dốc, đá tảng bám rêu vừa ướt vừa lạnh lại vừa trơn, trên đầu là mặt trời chói lọi, dưới chân là mây phủ ngập rừng; từng quả núi dần dần bị bỏ lại, phút chốc chỉ còn trời với mây, với đỉnh Hủa Xi Pan sừng sững đầy diễm lệ. Nhóm bảy người cứ thế lặng lẽ nối đuôi nhau, lúc vươn tay bám cành, trèo đá vượt rừng, lúc guồng chân bám trụ với gió núi, ngược dốc tiến lên, qua hai ba canh giờ, vẫn chẳng ai nói với ai điều gì, căn bản chỉ để giữ sức đi cho trọn đoạn đường còn lại.
Ngô Bình đều chân thoăn thoắt bước, mắt dõi theo thân ảnh nhanh nhẹn của A Chân ở ngay phía trước, đầu lại không sao thoát khỏi mớ suy tư nhập nhằng về tình hình an nguy của Nhật Lão. Đã không nghe A Chân tâm sự chuyện cũ thì thôi, giờ nghe rồi lại càng thấy rối, bao nhiêu thắc mắc cùng lúc dồn về, cứ thế xoay vần điên đảo trong cái đầu vỗn dĩ đã rất hỗn loạn của chàng. Chàng cố gắng sắp xếp lại sự kiện, liên hệ lại tất cả những gì bản thân đã từng được nghe về người Khau Phạ, vẫn không sao hiểu được rốt cuộc ai mới là người nắm trong tay quyền lực thật sự của bộ tộc này.
Trên đỉnh Hủa Xi Pan có một ngôi đền mà A Chân hay gọi là đền thờ Thần Nữ, mẹ đẻ của bác chàng_Hà Thanh Bình_cũng là Thần Nữ, là vợ chính của ông ngoại chàng_tù trưởng Hà Thanh Lâm. Vậy Thần Nữ là danh xưng của một người phụ nữ nắm quyền lực tín ngưỡng, hay là một vị thần trong truyền thuyết người Khau Phạ, hay cả hai? Không loại trừ khả năng, người phụ nữ được gọi là Thần Nữ kia chính là thánh sống của bộ tộc, biểu tượng cho quyền lực mẫu hệ vốn đã bám rễ cả ngàn năm nơi vùng núi rừng Tây Bắc Đại Cồ Việt này. Nếu sự thật đúng là như thế, thì việc cứu hay không cứu được Nhật Lão, lại hoàn toàn không nằm trong quyền quyết định của tù trưởng Hà Thanh Sơn; chỉ sợ hơn một tháng qua, rất cả thể mọi chuyện đã được an bài cả rồi, đã trở thành quá muộn mất rồi.
– Anh Bình! Cẩn thận!
Mải lo nghĩ ngợi, Ngô Bình nhất thời không để tâm đường đi. Trước mặt chàng là một vũng lầy, chỉ khi Như Như từ phía sau gọi với lên cảnh báo, chàng mới kịp nhìn ra, nhưng lại không kịp tránh, liền trượt chân ngã oạch vào đấy, bùn sình nhuốm lạnh theo đó bắn cả lên tóc lên áo. A Chân đi trước nghe thấy, lập tức dừng chân ngoảnh đầu ngó chừng; mấy người đi sau cũng vội vã nhốn nháo bước đến thật nhanh. Nhưng Như Như vì đi ngay phía sau Ngô Bình nên nhanh chân hơn cả, thấy nàng kịp đến đỡ chàng dậy rồi, những người khác cũng thôi không vội nữa mà đứng lại chờ đợi.
Xuân Lan đi tít phía sau, vừa biết chuyện liền cao giọng hỏi với lên:
– Bình nhi, ngươi bị làm sao thế?
Như Như đỡ lấy bớt đồ đạc rồi kéo Ngô Bình đứng dậy, xong mới ngoái lại đáp lời Xuân Lan:
– Cô cô, không sao cả. Anh ấy chỉ bị trượt ngã thôi! Chúng ta đi tiếp được rồi!
Đoạn, nàng vừa giúp Ngô Bình lau sạch bùn bám trên mặt, vừa hạ giọng khuyên nhủ:
– Anh đừng quá lo, sẽ ổn cả mà! Mấy ngày nay chúng ta không hề thấy ai xuống núi. Chừng nào hai vị Phùng Cầm đại gia và Phùng Họa nhị gia còn ở Hủa Xi Pan, chừng đó Nhật Lão sẽ không sao cả. Hơn nữa, Thần Nữ dù có uy quyền đến đâu, cũng không thể tự mình quyết định chuyện liên quan đến mạng người. Cùng lắm, nếu mấy người chúng ta không thể giải thích cặn kẽ với những người ở đền thờ, cũng có thể liệu bề xoay sở kéo dài thời gian, chờ Hà tù trưởng áp giải Đỗ Hòa lên đến nơi. Họ đi sau chúng ta chỉ vài canh giờ, lại rành đường đi nước bước, chắc chắn sẽ đuổi kịp.
Như Như phân tích cặn kẽ, giọng điệu mười phần kiên quyết, mắt ánh lên vẻ tự tin khích lệ. Đầu mày Ngô Bình chau lại thật nhẹ, băn khoăn nhìn nàng một lúc, nói:
– Hóa ra nàng cũng không ngủ, nghe bọn ta nói chuyện với nhau?
Như Như mím môi khó xử, nhưng cũng khẽ gật đầu thừa nhận. Sợ Ngô Bình sinh giận rồi lại nghĩ này nghĩ nọ, nàng dè dặt nắm lấy tay chàng, vừa kéo chàng đi tiếp, vừa ôn tồn giải thích:
– Thật ra, chẳng ai ngủ được cả! Anh không ngủ được, em không ngủ được, Đinh cô cô càng không ngủ được. Mấy đêm trước em có hỏi cô cô, làm thế nào để anh chịu nằm yên nghỉ ngơi tới sáng, chứ cứ nửa đêm thức dậy nói chuyện với A Chân, anh mệt mỏi mà cô ấy cũng không ngủ được bao nhiêu. Nhưng cô cô lại bảo em cứ để mặc anh, nói chuyện với A Chân có thể giúp anh an lòng, mà mọi người cũng biết thêm thông tin liên quan đến Thần Nữ, cũng xem như là chuẩn bị tâm lý trước khi gặp mặt ở Hủa Xi Pan. Nhưng sang hôm nay, lại thấy anh mất tập trung thế này…
Ngô Bình nhẹ nhàng ngắt lời Như Như, bàn tay đang bị nàng nắm lấy liền trở sang nắm ngược lại tay nàng, siết thật nhẹ:
– Không phải ta trách cứ nàng đâu! Đường đi gian nan thế này, mọi người đa số từ nhỏ đã ở đồng bằng, không quen chịu rét chịu lạnh, lẽ ra từ đầu ta đã phải nghĩ ra là ai cũng không ngủ được. Chỉ vì ta quá lo lắng cho ông ngoại, nhất thời vô tâm với nàng và mọi người. Nàng không giận ta thì thôi, ta sao lại nỡ giận nàng?
Đến đây, chàng quay sang nhìn Như Như, nhoẻn miệng cười ấm áp. Nàng cũng mỉm cười đáp lại rồi ngoảnh đầu quay nhìn về phía trước, chân chưa kịp tăng tốc đã bị chàng níu lại, ghì vào thật gần. Bên tai, gió không ngừng lướt qua vù vù, lẫn trong tiếng gió, nàng nghe thấy tông giọng trầm ấm của chàng với đầy vẻ ân cần, vang lên thật khẽ:
– Lần này đưa được ông ngoại về Mộc Hương sơn trang, ta nhất định không để mọi người phải chịu khổ nữa. Lúc đó, ta sẽ xin ông ngoại đứng ra làm chủ, để ta… hỏi cưới nàng. Chỉ sợ nàng chê ta xuất thân không xứng…
Lời lẽ ấy khiến Như Như quá đỗi bất ngờ, tim lập tức đập rộn lên trong lồng ngực. Ngoài trời gió thốc lạnh lùng, nàng vẫn cảm thấy mặt mình nóng bừng, ửng đỏ, tay run khẽ lên trong lòng bàn tay chàng.
Thấy nàng phản ứng có hơi hốt hoảng, Ngô Bình cũng phát hoảng theo, lời lẽ tự nhiên thành ra ấp a ấp úng:
– Ta…là ta quá đường đột…nhất thời xuôi theo cảm xúc…
Như Như không đợi chàng nói hết, rút luôn tay mình khỏi tay chàng, cúi đầu giấu thẹn, nói:
– Ai bảo em chê anh xuất thân không xứng? Lời nói ra rồi em sẽ ghi nhớ, nhất định không cho anh rút lại đâu!
Dứt lời, nàng rảo chân bước vượt lên phía trước, không dám nán lại cạnh chàng thêm nữa, sợ chàng sẽ nhìn thấy bộ dạng luống cuống của mình. Ngô Bình sững sờ trông theo, tưởng như tất cả chỉ là một giấc mơ viển vông, một cơn hoang tưởng giữa lúc bị núi cao làm cho chóng mặt; sau một hồi định thần lại, chàng mới dám tin rằng nàng vừa đồng ý gả cho mình. Đoạn, chàng lắc đầu thật mạnh, tiếp tục sải chân bước đi, không hề hay biết ngay phía sau, ánh mắt khắc khoải bi thương của Yến Lan đang dán chặt vào bóng lưng mình.
Yến Lan đi cách đó một khoảng không quá xa, đủ để nhìn thấy từng cử động nhỏ nhất của Ngô Bình và Như Như. Dù nàng chẳng nghe thấy bọn họ nói gì, thực lòng cũng chẳng muốn nghe, nhưng nàng lại không đủ mạnh mẽ để quay mặt đi, vẫn ngoan cố chăm chú ghi nhận sự thân mật, ân cần, trìu mến họ dành cho nhau. Tim nàng hốt nhiên nhói lên khi thấy Như Như vùng vằng bỏ đi, rất nhanh chóng, lại trở về với nhịp đập thản nhiên như cũ.
Phía sau nàng, Xuân Lan đột ngột lên tiếng, vu vơ và ám chỉ:
– Ái biệt ly, oán tăng hội, cầu bất đắc, (2)…
Yến Lan vờ như không nghe thấy, chân vẫn giữ đều nhịp bước, từ khóe mắt nàng, một giọt nước trong veo nóng ấm lăn xuống, chưa kịp tạo thành vệt dài trên gò má đã bị gió núi lau khô, hệt như chưa từng tồn tại.
Thời gian trôi qua không đợi người nhận thức, mấy chục dặm đường rừng vừa đi vào chặng cuối, phía trước đã là khoảng trời chói chang với vầng dương hừng hực ngay trên đỉnh đầu. Mây và núi, sau cùng cũng đều bỏ lại dưới chân cả. Ai nấy chưa kịp vội mừng đã phải nín thở lặng người. Lẫn trong tiếng gió, có tiếng leng keng rất đặc trưng của kim loại va chạm vào nhau, lại có cả tiếng rầm rì biến dạng vọng vào vách núi, cuốn theo gió lướt qua bìa rừng, thần thần bí bí, ma ma quỷ quỷ. Sau cùng, có thể nghe rõ ràng nhất, chính là tiếng thét cảnh báo của A Chân:
– Nhanh lên! Không hay rồi! Trong đền thờ đang có đánh nhau!
Dứt lời, cô gái người Khau Phạ lập tức guồng chân vụt chạy. Mọi người sửng sốt bám theo, cố dằn xuống cơn thắc mắc vì không nhìn thấy dấu hiệu nào của đền thờ cả.
A Chân không chạy tiếp lên đỉnh núi phía trước mà lại men theo bìa rừng sang bên kia quả núi. Đường đi càng lúc càng hẹp, cây cối dần dần lấn ra sát vách đá, đẩy rừng thẳm với vực sâu chỉ còn cách nhau một con đường nhỏ trải đầy đá tảng trơn ướt. Rồi trong sự ngỡ ngàng của hết thảy mọi người, đến đoạn cuối con đường, A Chân bất ngờ nhảy vụt xuống vực. Ai nấy thót tim nín thở, lập tức dừng lại kinh dị nhìn chằm chằm vực núi trước mặt, không kịp thốt lên dù chỉ một từ. Thanh âm gió hú bên tai cuốn theo tiếng leng keng gần hơn bao giờ hết, nhóm người Mộc Hương Trang lại hoài nghi nhìn nhau khó hiểu, không tiến lên, cũng không vội bước lùi. Sau cùng, ngay khi Xuân Lan vừa định chạy ra vực núi xem thử, thì từ dưới đấy lại vọng lên tiếng gọi của A Chân, rõ ràng rành mạch:
– Nhanh lên! Mọi người đâu cả rồi?
Được lời ấy, ai nấy vừa mừng vừa lo, cùng nhau đổ xô đến, vừa ngó xuống đã thấy ở dưới có một ngách đá nhỏ hẹp dẫn vào một cái động bí mật khoét sâu vào sườn núi. A Chân từ trong động ló đầu ra ngoài, vội vàng giải thích:
– Đền thờ Thần Nữ ở trong này!
Ngô Bình bèn nhanh chân trèo xuống, đỡ từng người một. Khi quay lưng lại, chàng thấy cửa động không lớn, lại phủ đầy dây leo chằng chịt, bèn dùng hay tay thu vén mớ dây leo ấy, lách người luồn vào. Lớp dây leo cỏ cây dày gần một trượng, vừa đặt chân vào bên trong hang động, tiếng gió dứt hẳn hoàn toàn, không khí cũng ấm lên rõ rệt, phía trước mặt là một khoảng không bọc kín bởi đá núi sừng sững, với những cây đuốc sáng rực lắp đầy trên vách. Âm thanh leng keng chói tai của binh khí cùng với tiếng la hét từ sâu bên trong vọng ầm ầm ra ngoài, đinh tai nhức óc. Chờ mọi người đông đủ cả rồi, A Chân tiếp tục chạy vào trong động, hay tay lúc này đã thủ sẵn hai con dao găm sắc nhọn. Thấy vậy, nhóm người Mộc Hương Trang cũng thận trọng rút vũ khí, lẳng lặng bám theo.
Chay được chừng nửa dặm, cái động nhỏ ban đầu lại dẫn đến một động khác lớn hơn gấp mười lần, từ cái động lớn nhất ấy lại có thêm ba cái ngách, có lẽ là dẫn ra ba hướng khác nhau. Đến đây, Ngô Bình đã lờ mờ hiểu, đền thờ Thần Nữ thật ra là một hang động đá vòm nằm sâu trong vách núi, có tổng cộng bốn cửa dẫn vào từ bốn hướng khác nhau. Ngay phía trên hệ thống hang động này mới chính là đỉnh núi Hủa Xi Pan. Cái động lớn nhất, tạm gọi là chính điện, được bố trí lắp ba vòng đuốc men theo vòm đá; ngay giữa sảnh, rọi xuống từ tâm của các vòng đuốc, là một cái ngai đá xanh to lớn, với dây leo phủ đầy lan cả ra mặt thềm xung quanh.
Ở một góc phía bên kia ngai đá phủ dây leo, có mười hai cô gái trẻ đang chạy thành vòng tròn, mỗi tay cầm một con dao găm sáng loáng ánh bạc; lại có một người phụ nữ vận y phục đỏ thẫm, khuyên tai vòng bạc cùng cơ man nào là dây đeo rủ xuống từ mũ miện đội đầu che khuất cả khuôn mặt, hai tay cũng cầm hai con dao găm lưỡi cong nhưng được dát khắc tỉ mỉ hơn hẳn vũ khí của mấy cô gái kia, không ngừng di chuyển hỗn loạn bên trong vòng tròn mười hai người.
Bị bao vây ngay bên trong vòng tròn đấy là hai ông già tuổi tầm hơn chín chục, vóc người gầy guộc, ăn vận lôi thôi, đoán chừng chính là hai vị Phùng Cầm đại gia và Phùng Họa nhị gia của Sơn Tây võ phái, mỗi người cầm song đao cật lực đánh trả kiểu dàn trận rối mắt của mười ba người phụ nữ Khau Phạ.
Vừa nhìn ra cảnh tượng hỗn loạn ấy, Phùng Tửu tam gia lập tức phóng người xông thẳng vào vòng vây, vừa vung cao thanh đao vừa thét lớn:
– Đại gia, nhị gia, tôi đến rồi đây!
Mười mấy kẻ đang đánh nhau lập tức giật bắn người, không hẹn mà cùng ngoảnh đầu ngó ra ngoài. Nhưng rất nhanh sau đó, thế trận lại tiếp diễn, chỉ kịp nghe thấy người phụ nữ áo đỏ nói một câu gì đấy bằng tiếng Khau Phạ, rồi A Chân tự mình tách nhóm, nói lớn bằng tiếng Kinh với bà ta:
– Thần Nữ! Xin đừng dàn trận nữa. Tất cả chỉ là hiểu lầm thôi!
Người phụ nữ ấy chính là Thần Nữ của tộc Khau Phạ, cũng chuyển sang nói tiếng Kinh bằng âm giọng lơ lớ khó nghe, vẻ đầy đe dọa:
– Lường A Chân, ai cho phép ngươi đưa bọn người ấy vào đây? Muốn học đòi theo Chiêu Sương làm phản sao?
A Chân vội vã quỳ xuống, ném luôn hai con dao găm ra phía trước, ngẩng cao đầu nói:
– A Chân không bắt chước Chiêu Sương, A Chân phụng mệnh tù trưởng đưa những người này lên núi gặp Thần Nữ! Nhật Lão thật sự bị oan! Xin Thần Nữ hãy nghe A Chân nói.
Thần Nữ đột ngột trở giọng cười lớn, miệng nói luôn một tràng tiếng Khau Phạ. Mười hai cô gái đang đứng thành vòng tròn lập tức tách nhóm sáu-sáu, một nhóm vẫn tiếp tục bao vây ba cao thủ của Sơn Tây võ phái, cùng Thần Nữ tấn công dồn dập, nhóm còn lại thì hung hăng lao vào những người của Mộc Hương Trang. A Chân vẫn quỳ cứng trên nền đất, lắc đầu ngăn cản:
– Thần Nữ! Xin hãy tin A Chân lần này! A Chân muốn đoái công chuộc tội. Cái chết của Hà quan lang và sáu mươi hai người nhiều năm về trước thật sự không liên can gì đến Nhật Lão!
Thần Nữ nghe nhắc đến Hà Thanh Bình, liền kích động quát:
– Câm mồm! Không cần biết ai bị oan, hai bậc tiền bối của Sơn Tây võ phái lại dám cả gan đột nhập đền thờ bằng cửa Đông. Ngươi bảo xem phải xử thế nào đây?
Nói rồi không màng A Chân tiếp tục lắc đầu lia lịa, Thần Nữ lại chuyển sang dùng tiếng Khau Phạ.
Nhóm năm người của Mộc Hương sơn trang từ đầu đã bị đặt vào thế bị động, lại sẵn tâm lý đi vào đền thờ mà không xin phép, nay bị tấn công thì nhất thời rối loạn, chống đỡ chưa quá ba chiêu liền nhận ra mình cũng bị dồn luôn vào thế trận vòng tròn mười hai người của bọn họ. A Chân đứng bên ngoài dẫu muôn vàn lần khó xử, vẫn không sao dám nhảy vào bên nào cả, chỉ biết quỳ yên một chỗ, thỉnh thoảng lại lớn tiếng van xin Thần Nữ.
Nhận định tình hình không thể giải quyết trong ôn hòa, chỉ còn cách cố gắng cầm chừng, đợi tù trưởng Hà Thanh Sơn áp giải Đỗ Hòa lên mới mong vị Thần Nữ kia chịu thu trận, nhóm người Ngô Bình bèn quyết tâm tận lực chống trả, không cầu thắng chỉ cầu hòa, lòng thấp thỏm chờ tin Hà tù trưởng.
Nói về trận pháp của người Khau Phạ, rõ ràng tuân theo luật dùng mười hai Địa Chi, không sai khác quá nhiều so với Linh Cung Thập Nhị Trận, chỉ có điều, trận pháp này của người Khau Phạ dường như đã được thêm thắt vào rất nhiều thứ mới mẻ, võ công áp dụng cho từng người lại thống nhất từ chiêu thức đến vũ khí, tạo thành một khối hợp nhất chặt chẽ đến không có bất cứ sơ hở nào. Cứ cho rằng, ở đây có ba cao thủ bậc nhất của Sơn Tây võ phái, hai đệ tử xuất sắc của Thạch Hà nữ phái, một người xuất thân từ Linh Cung, và bản thân Ngô Bình đã từng học qua cả trận pháp của Linh Cung lẫn Phật môn kiếm phổ, nếu không phải võ công xuất chúng thì cũng biết cặn kẽ về luật Thiên Can Địa Chi, nhưng chính vì xuất thân võ học quá khác biệt, nhất thời không thể hợp nhất, lại không có cách gì ra ám hiệu cho nhau để dàn trận, nên nhóm người Mộc Hương Trang hoàn toàn bị đặt vào thế bất lợi trong trận pháp mịt mù của người Khau Phạ.
Thoạt đầu, Xuân Lan chủ trương dùng Kim Yên Trận, phóng ám khí có buộc chỉ thêu, mục đích trước hết vì muốn lấy Thiên Can đấu với Địa Chi, sau là để thăm dò thói quen dàn trận của người Khau Phạ. Như Như hiểu ý, cũng chuyển hẳn sang dùng ám khí, trợ lực cho Xuân Lan. Riêng Ngô Bình, một mặt vẫn cùng Tòng Phương dùng Mộc Hương Kiếm, tạo thế cân bằng với Phong Vân Đao của ba cao thủ Sơn Tây võ phái, mặt khác vừa quan sát đối phương, vừa cố tình để lộ sơ hở, nhằm dẫn dụ họ đánh vào mà chủ quan với Kim Yên Trận của Xuân Lan. Hai bên giằng co một hồi, phần vì người Khau Phạ bị bất ngờ trước Kim Yên Trận, phần vì phía Mộc Hương Trang vẫn chưa tìm được sơ hở của đối phương, nên càng đánh chỉ càng hao tổn sức lực mà chẳng bên nào chiếm được thượng phong.
Võ công của những cô gái người Khau Phạ vốn không có gì đặc biệt, so với A Chân cũng chỉ bằng hoặc kém, thân thủ tuy nhanh nhẹn uyển chuyển nhưng dường như bị rập theo một khuôn khổ nào đó nên thiếu tính biến hóa. Nếu luận về nội lực, mười ba người phụ nữ hiển nhiên không thể đọ lại được nhóm cao thủ Mộc Hương Trang và Sơn Tây Võ Phái. Chỉ hiềm, lối trận pháp mà họ đang sử dụng quá ư chặt chẽ, nửa quen nửa lạ, mới mới cũ cũ, lại thêm Thần Nữ liên tục nói lớn bằng tiếng Khau Phạ khiến nhóm người Kinh dễ bị phân tán tư tưởng, nên dù có lợi thế về nội lực hay kĩ thuật cá nhân cũng vẫn không sao phá nổi vòng vây.
Sau một hồi ẩu đả quyết liệt, Xuân lan đột ngột rút dây thu hết Kim Yên Châm về. Đoạn, nàng nhảy phắt đến chỗ Ngô Bình, kéo chàng cùng lùi vào tâm vòng tròn rồi nói với ra ngoài:
– Như Như, Yến Lan, dùng Thạch Ngọc Trảo hỗ trợ cho ba vị tiền bối, cùng anh Tòng Phương dùng thế sáu người chọi mười hai người. Tôi có ý này, nhất thời không thể giải thích, xin ngãy nghe tôi trước đã!
Chú thích:
(2) Theo giáo lý nhà Phật, có tám loại khổ, đó là: Sinh khổ (khổ do sinh), lão khổ (khổ do già), bệnh khổ (khổ do bệnh), tử khổ (khổ do chết), ái biệt ly khổ (khổ do xa lìa những gì ta thích), oán tăng hội khổ (khổ do nối kết với gì ta không ưa thích), cầu bất đắc khổ (khổ do không được điều ta mong cầu), ngũ ấm xí thạnh khổ (khổ do hiện hữu năm ấm: sắc, thọ, tưởng, hành, thức).
