Chiếc phách muôn vẻ

Âm nhạc ở khắp mọi nơi đều cần đến chiếc Phách, hoặc một hình thức tương tự như chiếc Phách để giữ Nhịp. 

Bên cạnh Cao Độ – tức độ cao thấp của âm thanh, thì Trường Độ – hay độ dài ngắn của âm thanh – là một yếu tố cơ bản cấu tạo nên mọi bài nhạc. Trong một bản nhạc, nếu ký hiệu hữu hình của Cao Độ là nốt nhạc, thì ký hiệu hữu hình của Trường Độ chính là nhịp phách. 

Khi diễn tấu và hoà tấu, bất kể là ca sĩ hay nghệ sĩ trình diễn nhạc cụ, để có thể nhận biết và giữ được trường độ, thì đều phải tuyệt đối tuân theo nhịp – phách như là kim chỉ nam của bài diễn tấu, hoà tấu ấy. Ngày nay, có rất nhiều thiết bị cả cơ học lẫn điện tử có thể tạo ra tiếng tempo đếm nhịp với độ chính xác được tính bằng đơn vị BPM – Beats per Minute – hay số lượng nhịp mỗi phút. Tuy nhiên, nếu truy ngược dòng lịch sử, không khó để ta bắt gặp những dạng thức dân dã và cảm tính hơn của các loại dụng cụ giữ nhịp gần như có mặt ở mọi nền văn hoá mà âm nhạc hiện hữu. 

 Ở Việt Nam, ta có chiếc Phách. 

Vốn là một nhạc khí tự thân vang, hình thức đơn giản nhất của phách là hai thanh tre, người chơi cầm mỗi tay một chiếc và gõ vào nhau, tạo ra âm sắc lách cách. Phách phổ biến và gần gũi đến mức hầu như tuổi thơ của ai cũng sẽ có một cặp phách hai lá để gõ trong những tiết học Tập Đọc Nhạc thời Tiểu Học và Trung Học. 

Tuy vậy, một trong những hình thức cổ xưa nhất của Phách đã được ghi nhận từ tận thời kỳ văn hoá Đông Sơn. Để rồi từ đó về sau, trong suốt chiều dài lịch sử của nước ta, Phách ngoại trừ giữ lấy cái tên “Phách Bản” (拍板) gốc Hán như các nước Á Đông, lại bao hàm rất nhiều những dạng thức đặc thù khác nhau, đến nỗi từng loại phách ấy có thể xem là một nhạc khí hoàn toàn độc lập, có những biến thể tên gọi khác, và có những quy tắc nghiêm ngặt khác về cách chơi trong những loại hình trình diễn âm nhạc từ dân gian đến cung đình. 

Từ Thời Lý đã có Hát Ả Đào – mà về sau này dần phát triển thành Ca Trù. Người Ca Nương khi trình diễn luôn có một chiếc phách trước mặt. Hình dạng của phách lúc này có ba mảnh, gồm một bàn phách để cố định dưới đất, người Ca Nương ngồi hát sẽ cầm theo hai cái dùi – một cái được xẻ dọc (gọi là dùi kép), còn cái kia không xẻ (gọi là dùi đơn). Thi thoảng xen giữa những phần lời ca, cô đào sẽ dừng hát, dùng hai cái dùi gõ lách cách vào bàn phách, trong lúc người nhạc công chơi Đàn Đáy gảy lên những giai điệu nhạc dẫn vào một đoạn lời mới cho bài ca của cô. Khi cô Ca Nương đang hát, đôi tay gõ phách của cô vẫn nhẹ nhàng thả tiếng phách kèm vào lời ca. Lúc thì cô gõ dùi kép và dùi đơn luân phiên nhau để tạo ra chuỗi âm sắc trong – đục xen kẽ, lúc cô lại cùng gõ cả hai dùi xuống bàn phách để nhấn một tiếng thật mạnh mẽ. Trật tự gõ các dùi đơn và kép xen kẽ hoặc cùng lúc sẽ tạo ra những chuỗi nhịp “lá phách con” và “lá phách cái” căn bản trong Ca Trù: 

“Rục Phách Phách, Rục Phách Phách, Phách Phách Chát”.

Nhưng Phách không chỉ dừng lại ở chức năng giữ nhịp hay chia câu hát, Phách còn có thể quẹt, có thể lắc, thậm chí có thể múa. “Quán Tiền Phách” hay “Sênh Tiền” chính là một nhạc khí độc đáo như vậy! Một cặp Quán Tiền Phách gồm ba thanh gỗ cứng, thường làm bằng gỗ trắc hoặc gỗ cẩm lai, trong ba thanh ấy có hai thanh được quấn với nhau bằng dây da, trên đầu hai thanh gỗ này được gắn ba cây đinh để xỏ mỗi đinh ba đồng tiền (thanh thứ nhất gắn hai đinh, thanh thứ hai gắn một đinh), mặt dưới của thanh thứ hai có khắc răng cưa; thanh gỗ thứ ba hoàn toàn rời và không có đinh mà chỉ có răng cưa. Cấu tạo phức tạp này của “Quán Tiền Phách” cho phép nó có thể thay thế được cả ba nhạc khí là phách (gõ hai bộ thanh gỗ vào nhau), lắc (rung những đồng tiền để tạo tiếng) và quẹt (dùng phần răng cưa để cạ vào các mặt không khắc răng cưa). Quán Tiền Phách hay Sênh Tiền được sử dụng rộng rãi trong dân gian ít nhất vài trăm năm cho đến khi chính thức đi vào dàn nhạc cung đình dưới thời Lê Sơ. Loại nhạc khí này xuất hiện ở rất nhiều các hình thức trình diễn, từ những điệu múa mừng mùa màng của người Mường, cho đến Hát Sắc Bùa, Ca Huế, Chầu Văn. Người chơi Sênh Tiền nếu khéo léo uyển chuyển kết hợp động tác tay, sẽ có thể tạo thành một điệu múa trên nền âm sắc đa đạng và rộn ràng của nhạc khí này:

“Cách – Rẹt – Rung, Rung – Rẹt – Cách, Cách – Rung – Cách – Rẹt – Cách”

Mặc dù hàm chứa cả sự đa dạng và đặc trưng trong một tên gọi chung là “Phách”, các bộ Phách ấy lại chưa từng là độc tôn trong phạm trù giữ nhịp. Trong dàn nhạc truyền thống của Việt Nam, hoá ra tồn tại nhiều nhạc khí giữ nhịp và rải phách hơn ta nghĩ. Trống Chầu hay Trống Đế, ngoài âm thanh “bum” do dùi gõ lên mặt da, còn có âm thanh “cắc” khi dùi gõ vào tang trống, sự kết hợp này cũng là một dạng thức đệm nhịp phách vào trong một bài diễn xướng. Ngoài ra, ta còn có Mõ, hàng chục loại Mõ có hình dáng từ con rồng, con cá cho đến con chim, con dế, cũng là những nhạc khí bộ gõ để giữ nhịp, mà một trong những biến thể khá hiện đại nhưng vẫn giữ được hơi thơ truyền thống của Mõ chính là Song Lang – nhạc khí giữ nhịp cơ bản trong Cải Lương và Đờn Ca Tài Tử của vùng đất Nam Bộ.  

Nói chuyện chiếc Phách, sẽ phải kể câu chuyện về Nhịp, nhưng một khi đã đi vào Nhịp, một vùng rộng lớn hơn của các nhạc khí bộ gõ cũng sẽ được mở ra. Nhưng trống canh hôm nay đã tàn, chúng ta tạm dừng lại ở một chiếc Phách, và ghi khắc rằng ngay cả một nhạc khí vốn đơn giản cũng có thể phát triển thành những hình hài rực rỡ ra sao dưới bàn tay người nghệ sĩ. 

Hình đại diện của Không hiểu

Tác giả: Mộc Hân

"Phiến đá người thợ xây loại bỏ, sẽ trở nên đá tảng góc tường." "The stone that the builders rejected has become the cornerstone" Kinh Thánh Tân Ước - The New Testament - Matthew 21, 42

Bình luận về bài viết này