Tôi đã lỡ mất cơn mưa đầu mùa

Tôi đã lỡ mất cơn mưa đầu mùa

Như lỡ những lời yêu chưa từng nói

Tháng tư Sài Gòn tô hằn vệt nóng hổi

Ngày nắng qua rồi mưa đến vội lưa thưa.

 

Nhìn mặt đường ẩm ướt sau cơn mưa,

Tôi bàng hoàng tự trách mình mằn muộn

Gáo nước trời vụt nghiêng vành đổ xuống

Chỉ lỡ một nhịp thôi mà sợ mất cả một đời!

 

Tháng năm tháng sáu đến tháng chạp mưa dầm

Sài Gòn là thế nhưng anh nào có hiểu

Tôi chỉ lưu luyến mưa tháng tư thất thểu

Nước đổ đi rồi, lời yêu giấu trong tâm!

 

Hai mươi lăm năm lớp lớp những âm thầm

Những dang dở đầu đời chưa biết hối

Bất giác một ngày ngoảnh đầu nhìn thấy tội

Tội cho thân lỡ mất một cơn mưa!

 

Biết đâu đấy ngược về những ngày xưa

Dòng mưa hoa dưới khoảnh sân hửng nắng,

Vẽ mơ mộng tô lên đời trần tục,

Cánh hoa vàng nào ướt đẫm sương mưa?

 

Chỉ là một cơn mưa tháng tư rơi rất vội,

Ký ức mang theo tí tách rớt nửa vời,

Biết đâu đấy nhờ không nhìn không thấy,

Nước đổ xuống rồi lòng cũng bớt thê lương!

 

Tạ ơn trời dù đã lỡ cơn mưa,

Xin đừng lỡ lời yêu đương định nói!

 

Mộc Hân,

Sài Gòn,

Mưa đầu mùa,

27/04/2016,

“Mỹ Nhân” và những cái lỡ dở

Lâu nay vẫn xem phim đều đặn, nhưng từ hồi “Big Hero Six” đến giờ thì chưa viết thêm cái review nào. Không phải là vì không tìm thấy thỏa mãn, đơn cử như “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh”, cực kỳ thỏa mãn luôn, nhưng tự thấy bút lực của mình có hạn trước cơn bão lời khen tràn ngập đầy ngoài kia, nên thôi không viết.

Hôm nay Chủ Nhật trời đẹp, lại phải suy nghĩ hẳn cả một buổi để quyết định có nên đi xem “Mỹ Nhân” hay không, tất cả chỉ vì cái trailer. Cái trailer phim thật sự làm tôi rất hoang mang, vì nó hội đủ tất cả những yếu tố khiến tôi không tự tin khi đi xem phim lịch sử Việt: 1/ cảnh nóng, 2/ đề tài lịch sử, 3/ phục trang lịch sử. Nhưng cuối cùng, sau khi cố gắng bấm xem cái trailer lần thứ hai, tôi đã bị khung cảnh bến nước buổi hoàng hôn kéo ra rạp, dù thực lòng trong bụng vẫn còn thấy rất hoang mang.

Nói một cách ngắn gọn chuyện tại sao tôi hoang mang. 1/ Về vấn đề cảnh nóng, tôi rất ghét chuyện lấy thân thể phụ nữ ra câu khách trên phim ảnh, đặc biệt nhấn mạnh là phụ nữ! 2/ Về đề tài lịch sử, tuy không quá khó tính nhưng cái tôi chán nhất là phải xem một bộ phim ru ngủ chỉ vì nó quá sát với những cái được viết trong sử, nhấn mạnh là quá sát! 3/ Về trang phục lịch sử, sai sót có thể xảy ra, nhưng con sư tử Simba và mấy con rồng Chibi xuất hiện trong trailer là không thể chấp nhận được, lại nhấn mạnh là mấy con rồng hết sức Chibi.

Lúc đến rạp BHD 3/2 (rạp gần nhà nhất chịu chiếu cái phim này), tôi chìa cái thẻ sinh viên ra, những mong được giảm giá, nhưng chị bán vé từ chối thẳng thừng, vì tôi không có thẻ thành viên. Riêng về khoản này thì Galaxy ăn đứt BHD rồi, khổ nỗi những phim kén người xem thì không hiểu sao cứ phải ra BHD mới xem được. Lúc cầm tấm vé 80k trên tay, tôi càng hoang mang tợn, lúc đó tôi chỉ dám hy vọng là phim sẽ có cái gì đó đáng để níu kéo với 80k tôi đã bỏ ra, không phải vì tiếc 80k, mà là vì tôi chỉ tốn có 60k cho “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh”, gì thì gì, xem phim cũng phải công bằng đi!

Và sau khi xem phim xong, cái sự hoang mang của tôi lại bị dẫn đi từ khách thể này sang khách thể khác. Chỉ có điều, 80k thật sự không bằng với 60k những gì tôi đã được xem ở “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh”, nhưng cũng không làm tôi phải tiếc nuối, vì thật sự có cái xem được ở “Mỹ Nhân”.

Theo thông lệ, chê trước khen sau! Đọc tiếp ““Mỹ Nhân” và những cái lỡ dở”

Ước mơ và cái giá của nó

Lâu lâu mới có dịp rảnh rỗi ngồi viết blog, thôi thì bàn chuyện ước mơ cho nó thời sự.

Ở đời, bất luận là làm cái gì, dù đúng dù sai, cũng phải trả một (hoặc nhiều) cái giá tương xứng.
Tôi có một nước mơ, rất cố chấp, ôm ấp đã hơn mười hai năm nay, dù chưa bao giờ tôi đến được đủ gần để nhìn thấy nó một cách rõ ràng, chỉ biết là mình phải đi đến đó, bằng mọi giá, giống như Santiago trong “The alchemist” của Paulo Coelho vậy.
Để đến được đó, tôi đã phải trả giá bằng rất nhiều thứ, mà không phải chỉ mỗi mình tôi, mà cả ba tôi, mẹ tôi, đều phải trả giá cho giấc mơ của tôi. Có người chờ đợi được, có người dù muốn cũng không chờ được nữa, nhưng tôi trước sau vẫn cố chấp theo đuổi, tưởng có lúc buông bỏ rồi, số phận vẫn xoay chuyển để tôi phải tiếp tục cố chấp.
Cái giá phải trả chỉ mình tôi hiểu, thời gian qua đi, có thể lấy đi mất rất nhiều thứ của người phụ nữ, tôi thậm chí phải tập quên đi giới tính của mình để có thể tiếp tục tập trung theo đuổi ước mơ, và dĩ nhiên, tập quen dần với sự cô đơn và tự lập.
Nhiều lúc trời mưa, vác balo đi một mình giữa trời Sài Gòn, tôi ước gì có ai đó đến rước mình, như ba tôi đã từng làm suốt mười hai năm tôi đi học. Nhiều lúc cúp điện, ngồi một mình trong ký túc xá và tưởng tượng đủ thứ loại sợ hãi trên đời, tôi ước gì có ai đó để mình có thể gọi đến bên cạnh ngay lúc ấy. Rất nhiều lần tôi cảm mến người này người nọ, nhưng có lẽ do cá tính tôi quá mạnh và hơi cầu toàn trong chuyện tình cảm, nên hết lần này đến lần nọ đều vô duyên hoặc vô cớ chán nản mà bỏ cuộc. 

Phụ nữ vốn không có ai muốn mình phải gồng mình mạnh mẽ, họ muốn có một bờ vai, một vòng tay để nương tựa.

Nhưng những người thực hiện ước mơ đều phải một mình mạnh mẽ, và đôi khi vòng tay hay bờ vai duy nhất mà họ có lại chính là những bậc sinh thành vĩ đại. 

Xã hội Á Đông vốn rất bảo thủ, ước mơ của người đàn ông thường được xem trọng hơn ước mơ của người phụ nữ, dù đôi khi, họ ước mơ cùng một điều như nhau. Đa phần mọi người, thậm chí cả phụ nữ, thậm chí cả tôi một thời cũng đều cho rằng ước mơ chân chính của một người phụ nữ là có được một gia đình hạnh phúc. Nhưng đó thật ra không phải ước mơ, đó là nhu cầu căn bản của cuộc sống, xã hội đôi khi vô tình hoặc cố ý đánh đồng ước mơ với nhu cầu để tước đoạt cơ hội thực hiện ước mơ của một số không ít người khác, mà ở đây là phụ nữ. 

Đời sống hôn nhân lại cho thấy, nếu một người lo cho sự nghiệp, tất nhiên người còn lại phải hy sinh làm hậu phương vững chắc, trừ khi cả hai đều đồng tâm đồng lòng có chung một ước mơ, họ sẽ nắm tay nhau hạnh phúc và cùng nhau thực hiện ước mơ ấy. Trong muôn vạn thì có một, như gia đình của Pierre Curie và Marie Curie vậy, rất đáng để hậu thế phải ngưỡng mộ. 

Ước mơ của tôi quá lớn, lớn đến mức tôi không thể làm hậu phương cho bất kỳ người đàn ông nào, trừ con trai tôi (nếu sau này tôi có con trai). Dĩ nhiên, bản thân tôi cũng không thể ích kỷ đòi hỏi ai đó phải làm hậu phương cho mình, tôi nguyện một lòng chờ đợi một người bạn đời đồng tâm đồng lòng trên con đường mơ ước gian nan của cả hai, dù có thể phải đợi rất lâu, hoặc thậm chí không thể gặp được một ai đó như vậy. Đó là một trong những cái giá đắt nhất tôi nghĩ không chỉ riêng mình, mà với những người phụ nữ Á Đông tham luyến mơ ước, đều phải đối diện và học cách chấp nhận. 

Đến năm nay tôi đã đi được hơn hai mươi bốn năm trên đời, nếu vẫn còn muốn cố chấp, có lẽ phải mất ít nhất mười năm nữa, hoặc hơn thế nữa, nhưng tôi biết nó rất đáng để tôi tiếp tục trả giá. Chỉ là, trong một phút yếu lòng như lúc này đây, tôi mong rằng có một người có thể chờ được đến ngày tôi đi đến tận cuối con đường cố chấp này, và có một người dành riêng cho tôi đang chờ tôi ở đâu đó trên con đường mà tôi chọn lựa, để tiếp tục cùng tôi đi đến tận cùng.
Hai điều thành tâm mong mỏi, xin ơn trên chớ phụ lòng!

Mộc Hân,

Sài Gòn, 1:22,

26/07/2015

Ngắn gọn về “Việt Nam phong tục” của Phan Kế Bính

24 vẫn chưa quá hạn để rong chơi.
Nhưng tôi muốn rong chơi suốt cuộc đời!
Trải những hội hè đến tận khi đơn độc,
Chỉ đời này đủ độ lượng cho tôi mãi rong chơi.

Nhập đề có vẻ không liên quan nhưng mà hôm qua đọc cuốn “Việt Nam phong tục” của Phan Kế Bính hay quá đi mất! Sách viết từ tận những năm 1915 mà đọc vào một vài đoạn cứ có cảm tưởng như nội dung phản ánh chính xã hội thời hiện đại này vậy. Tuy vẫn chưa đọc xong nhưng có một vài ấn tượng sau đây, không viết ra có khi lại quên mất.
1/ Người Việt rất giỏi giữ gìn văn hóa và bản sắc dân tộc, có một vài tục lệ đến giờ vẫn còn.
2/ Chính vì quá giỏi giữ gìn bản sắc dân tộc nên cả những cái xấu cũng vẫn còn lì lợm lưu giữ đến tận ngày nay.

3/ Hóa ra người Nhật họ văn minh và có ý thức từ tận 100 năm trước rồi, chỉ cần nhìn cái so sánh phong tục tang ma của hai nước thôi, sẽ thấy! (xem trang 29)
4/ Ngay từ năm 1915 đã có một người Việt Nam xuất thân Nho học có tư tưởng rất tiến bộ như Phan Kế Bính, thậm chí còn tiến bộ hơn một vài trường hợp mà tôi đã gặp ở thời hiện đại này. Vậy mới hay, Việt Nam không thiếu nhân lực, chỉ thiếu động lực và một nền giáo dục tốt.
5/ Cuối cùng, thật sự hơi buồn khi đọc quyển sách này. Buồn là vì không hiểu tại sao 100 năm trước những tư tưởng của Phan Kế Bính đã được chấp nhận rộng rãi, nhưng đến tận bây giờ thì có những góp ý, so sánh, phê phán và đề xuất của ông trong cuốn sách này vẫn chưa được hiện thực hóa. Lẽ nào là do chúng ta chỉ chuộng lý thuyết, thấy lạ thấy hay thì vỗ tay khen, còn làm theo thì kiên quyết không làm ?!?! Tóm lại, người Việt mình nhiều khi quá kiên quyết, quá kiên trì, thành ra cũng lì lợm và bảo thủ kinh khủng.

Vì chưa đọc xong trọn vẹn nên tạm dừng review ở đây thôi, khi nào đọc xong rồi sẽ viết tiếp.

Mộc Hân

Thành phố Mới Bình Dương,

10:10 AM

5/5/2015

P/s: Viết xong mới thấy, ngày đẹp như này mà phải đi ôn thi!

Đôi lời cho “Chiếc lư đồng mắt cua”

Tôi quý văn phong của cụ Nguyễn Tuân đã lâu, nhưng để gọi là hiểu về cái văn phong ấy, dù chỉ là trong thuở ban đầu mới tạo hình, thì phải đến tận những ngày Tết Ất Mùi 2015. Ở đây, tôi xin mạnh dạn mạn phép dùng từ “hiểu”, bởi vì trong “Chiếc lư đồng mắt cua”, có một tôi – Nguyễn Tuân hãy còn rất trẻ, rất hoang mang và cũng rất bế tắc, hệt như tôi bây giờ vậy! Ngẫm lại mà xem, ai cũng đã từng một lần tuổi trẻ như vậy, chỉ là hình thức khác nhau muôn hình vạn trạng mà thôi.

Một đêm khó ngủ, tôi lấy ra từ bàn sách cuốn “Chiếc lư đồng mắt cua”, nhân nói về cuốn sách ấy, tự tôi cũng thấy có một chút thẹn khi lần đầu nhìn thấy nó ở hội sách, tôi đã đắn đo cân nhắc những ba bốn bận, cầm lên đặt xuống rồi lại nhẩm tính tiền trong ví, dù nó chẳng đáng bao nhiêu, về sau mới quyết tâm mua cho bằng được, đổi lại phải ngậm ngùi đặt cuốn “Hội hè miên man” lại trên kệ sách với cái hẹn “lần sau” lần thứ năm hay sáu gì đó. Cho nên, mua sách cũng phải có duyên là vậy! Lại nói về cái đêm khó ngủ, nói thật lòng, vì là thể loại tự truyện, “Chiếc lư đồng mắt cua” tuyệt đối không phải loại sách có mạch dẫn gay cấn gì, càng không phải loại sách khiến người ta thức trắng đêm để đọc một mạch, và dĩ nhiên cũng không phải sách dễ đọc. Biết là thế, nhưng lúc ấy tôi lại ngu si cho rằng mình cần một cái gì đó để dỗ ngủ, dễ ngủ, mà không đánh giá hết được sức hút của cuốn sách, để rồi khi nhìn lại, đồng hồ trên tường đã quá hai giờ khuya được mười lăm hai chục phút, còn chữ trong sách cũng đã cạn đến âm tiết cuối cùng. Cái cuốn tôi đi một mạch hết cả cuốn tự truyện, nửa phần là văn phong chữ nghĩa, nửa phần là cái đầu tỉnh táo càng đọc càng tỉnh của mình, chứ không hẳn vì những cái “bế tắc”, “hoang mang” hay “trụy lạc” mà người ta thường gán cho “Chiếc lư đồng mắt cua”.

Nguyễn Tuân hay được ca tụng là bậc thầy sử dụng tiếng Việt, còn tôi, tôi lại cho rằng cụ là một tay chơi tiếng Việt thứ thiệt! Đọc văn Nguyễn Tuân giai đoạn này, tôi không thể không nghĩ đến Nguyễn Công Trứ, tạm bỏ qua những đàn ca hát xướng, những bế tắc vô định toát ra từ nội dung, duy chỉ xem xét cái khí chất dụng văn, thì cả hai đều ngông không chịu nổi. Ngông là sao? Ngông là mặc kệ hết những cái ước lệ phàm tục đi, mặc kệ hết những cái quen thuộc phổ biến đi, từng câu từng chữ dù chỉ là để nói đến những cái quen thuộc, cũng phải làm sao cho nó trở nên khác thường, để rồi cũng cùng là đặc tả cái sự vật ấy, cái cảnh tình ấy, cái cảm xúc ấy, nhưng ấn tượng do ngôn từ gây ra lại mạnh đến mức như lấy búa mà giáng vào đầu chứ không đơn thuần là thấm nữa! Thô bạo như vậy, khác thường như vậy, thì không phải là bậc thầy, ấy là tay chơi mới đáng! Bậc thầy, họ xem ngôn ngữ như đền thờ, còn tay chơi, họ xem ngôn ngữ như cái thú. Ở đền thờ thì không được ngông, nhưng đã là thú chơi thì càng ngông mới gọi là sành sỏi. Để minh họa cho cái sự ngông này, chẳng cứ phải tìm phải nhớ, chỉ cần tùy tiện lật bừa một trang, rồi ngồi cất công gõ lại để mọi người cũng thưởng lãm: Đọc tiếp “Đôi lời cho “Chiếc lư đồng mắt cua””

Dạ Cổ Hoài Lang – bi kịch tha hương

Đôi dòng giãi bày! Ngót nghét mà đã hơn nửa năm tôi không đi xem kịch, càng đáng trách hơn là đã hơn một năm cộng thêm cái ngót nghét nửa năm ấy tôi không viết bất kỳ bài cảm nhận nào cho kịch. Âu cũng là do bản tính lười nhác, yếu bóng vía, không đọ lại nổi những cái sân si tầm thường ở đời, tâm không tịnh, đầu óc không thanh thản, nên không làm sao viết được cái gì ra hồn. Nhưng ở đời, không ai có thể chạy trốn bản chất của mình cả đời, mà nhất là chạy trốn nó chỉ để theo đuổi những cái phù phiếm nhất thời, cho nên dù có bỏ đi xa đến đâu, cuối cùng tôi vẫn thấy mình vòng về sân khấu, vòng về cái nơi cho tôi được sống những tháng ngày thanh xuân đúng nghĩa. Hôm nay là ngày lễ tình nhân, tôi lại đi xem kịch, nhưng không phải đi với tình nhân, cho nên đời này mạn phép được xem kịch như tình nhân vậy. Ấy là chưa kể, vở hôm nay tôi xem tên là “Dạ Cổ Hoài Lang”, với tôi nó lại chuyển nghĩa thành “có nhớ thì mới tìm về”, thật ý vị biết bao!

Lần trở lại này với tôi có rất nhiều ý nghĩa, thậm chí nếu bỏ qua cái khoảng hơn nửa năm đã nói ở trên thì bản thân vở “Dạ Cổ Hoài Lang” cũng lập khá nhiều kỷ lục trong suốt bốn năm tuổi đời tôi miệt mài ở khán phòng sân khấu. Trước hết, đây là vở bi kịch đầu tiên tôi được xem, nếu tính cả vở “Bí mật vườn Lệ Chi” thì vở này vẫn ăn đứt về cái khoảng u ám và bế tắc. Thứ đến, đây là vở ít diễn viên nhất tôi từng xem, từ đầu đến cuối vỏn vẹn chỉ có 4 nhân vật vừa có thoại vừa có hình, nếu tính cả những vai có thoại không hình thì cũng chỉ có 5 nhân vật. Tiếp theo, đây là vở đầu tiên tôi xem ở sân khấu số 7 Trần Cao Vân, góc nhìn có vẻ ổn hơn so với sân khấu Idecaf và nhà hát Bến Thành. Cuối cùng, đây là vở khiến tôi phải khóc nhiều nhất, nếu tính gộp cả phim và kịch thì đây vẫn là lần khóc nhiều nhất (Vầng! Khóc thấy cha thấy mẹ luôn!).

Được biết “Dạ Cổ Hoài Lang” vốn là một vở kinh điển, lần này chỉ là tái diễn, qua bao bận sóng đời đẩy đưa, trong số các diễn viên từng đóng vở này, người ở lại đến tận hôm nay cũng chỉ còn có NSƯT Thành Lộc, còn thì thay diễn viên hết cả. Tôi sinh sau đẻ muộn, với cái nghiệp mê xem kịch thì lại càng muộn mằn ít tuổi, cho nên chưa kịp có cái duyên xem vở này từ trước với dàn diễn viên cũ. Thì thôi duyên đến lúc nào ta đón nhận lúc ấy, tạm bỏ qua những cái so sánh hay dở thường tình giữa các thế hệ, hôm nay tôi chỉ nói đến vở “Dạ Cổ Hoài Lang” với những Thành Lộc, Hữu Châu, Vân Trang và Lương Thế Thành.

Để tiện nhập đề, có lẽ trước tiên nên nói về những cái ám ảnh nhất của vở kịch.

Dù khái niệm “quê hương” được nhắc đi nhắc lại khá nhiều lần, cái đọng lại sau cùng thật sự vẫn là khái niệm “tha hương”. Ở đây, “tha hương” không chỉ có nghĩa là rời ra đất mẹ, tha hương còn có nghĩa là lạc mất gia đình, dù thật ra họ vẫn đang sống sờ sờ trước mắt. Cái “tha hương” của “Dạ Cổ Hoài Lang”, nó thê thiết lắm, bi thảm lắm, bởi vì nó cho ta nhìn thấy “biệt ly” trong “đoàn tụ”, bằng lối dẫn dắt đi đến tận cùng của cô độc, của mất mát, của thương tâm, ngay cả khi con người ta vẫn còn có một nơi mà họ tưởng đó là “gia đình”.

Bên cạnh đó, bi kịch của “Dạ Cổ Hoài Lang” còn được điểm xuyết thêm bằng những nghịch lý, tuy nhói lòng nhưng cũng rất trung thực và công bằng. Trung thực ở chỗ nó đặc tả rất đúng hoàn cảnh của những người xa xứ ở cái tuổi gần đất xa trời, mà thông qua ngôn ngữ sân khấu, cái hoàn cảnh ấy được nhấn nhá đến ám ảnh bằng chi tiết bức tranh quê hương được vẽ trên tấm vải chắp vá từ những miếng ga trải giường ở viện dưỡng lão, hay chi tiết tự kỷ ám thị những cái ống khói vô hồn thành người phụ nữ mặc áo dài đội nón lá của một ông già thất thập cổ lai hy,… .  Còn công bằng ở chỗ nó không đánh đồng tha hương lên tất cả những người xa xứ, mà thông qua quy luật nhân quả ở đời, nó chỉ kết luận một cách lấp lửng rằng tha hương như một cái giá phải trả cho những hành động sai lầm trong quá khứ. Nhân vật ông Tư tưởng như tha hương, suy đến tận cùng lại không phải là người bị quê hương chối bỏ, lại cũng không phải là đối tượng gây ra bi kịch, kết cục của ông đơn thuần chỉ là kết cục của một người quá nặng lòng với cái mà những người thân thuộc của ông đều ra sức chối bỏ – một lần nữa, lại là quê hương!

Nếu ngẫm kỹ hơn, bi kịch chỉ mới bắt đầu từ khi vở kịch kết thúc, khi ông già đơn độc nằm lại giữa trời gió tuyết và khán giả có thể hiểu rằng ông đã kịp nghe những lời thành tâm ân hận từ một nạn nhân khác của bi kịch, thì những điều kinh khủng nhất chỉ vừa mới bắt đầu với nhân vật thứ năm – chủ nhân cuốn nhật ký. Chính cái nút thắt mãi mãi không được tháo gỡ đó đã để lại bế tắc cùng bất lực, biến một vở chính kịch thành bi kịch, đẩy mọi tình tiết đi vào tuyệt lộ – không còn đường vãn hồi. Trong trường hợp này, cao trào nằm ở tận cùng vở diễn, hệt như phía cuối con đường là vực thẳm vậy.

Ơn trời, “Dạ Cổ Hoài Lang” không chỉ có quặn lòng cùng nước mắt, nó còn có những điểm sáng thông qua nhân vật của Lương Thế Thành, có những màn đối đáp hài hước rất duyên giữa nhân vật ông Tư của chú Thành Lộc và ông Năm của chú Hữu Châu, để xen giữa những lần khóc hết nước mắt, khán giả còn được cười thả ga, được hy vọng, được an ủi.

Ấy là về các tầng ý nghĩa của vở, còn nói về trình diễn, có lẽ tôi không nên lạm bàn chuyện diễn xuất, bởi lẽ đến những người đã từng xem vở gốc với dàn diễn viên cũ cũng đã tỏ ra hài lòng hơn hẳn về phiên bản mới này, thậm chí mấy cô lớn tuổi còn không ngại khen nức nở hai bạn diễn viên trẻ ngay khi chưa kịp rời khán phòng. Vì vậy ở đây, tôi xin mạn phép dành thời lượng để nói về cái sướng của mình khi được xem trình diễn kép. Ai cũng biết chú Thành Lộc xuất thân từ gia đình có truyền thống nghệ thuật nói chung và anh chị em nhiều người theo bộ môn cải lương nói riêng, bản thân chú lại thăng hoa trên “mảnh đất” kịch nói, cho nên cái duyên được xem chú vừa diễn kịch, vừa xướng hẳn một bài ca cổ, không chỉ một lần mà đến hai ba lần trong một vở diễn, thì thật rất đáng trân trọng, rất đáng nhớ, và cũng rất đáng sướng. Cần nói thêm là bài Dạ Cổ Hoài Lang được xướng trong vở kịch là bài gốc của cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu, với ca từ nguyên bản mang hơi hướng cổ phong. Lời ca mộc mạc lần đầu cất lên không nhạc đệm, người xướng ca lại mặc bà ba trắng, càng tô đậm cái chất tài tử Nam Bộ trộn lẫn vào cái chất cô đơn lạc lõng giữa bối cảnh đất khách quê người. Đến lần thứ ba, Dạ Cổ Hoài Lang được xướng không trọn vẹn, bị bỏ ngõ như nút thắt ức chế của vở kịch, và cũng vẫn không có nhạc đệm, hệt như ca cổ thiếu đờn kìm, như chồng thiếu vợ, như người xướng hát thiếu người tri âm. Bản cổ nhạc vốn dĩ đã buồn da diết, nay lại càng thêm phần ám ảnh khôn nguôi.

Có lẽ từ nay về sau, mỗi lần nghe lại Dạ Cổ Hoài Lang, bên cạnh cái cảm thương cho lời người chinh phụ, tôi sẽ còn phải da diết với tiếng lòng của người đàn ông tha hương mất vợ trong vở kịch “Dạ Cổ Hoài Lang”.

Mộc Hân,

Sài Gòn, 2:38,

15/02/2015.

Vạn sự như ý

Ở Việt Nam, “Vạn sự như ý” có lẽ là câu chúc được ưa chuộng nhất mỗi dịp Tết nhất, hay thậm chí là vào tất cả những dịp đặc biệt nào mà người ta thường cầu chúc cho nhau điều này điều nọ.

Thi thoảng khi cần chúc Tết, câu cửa miệng của tôi luôn là “Anh khang thịnh vượng”, xong lại đến “Vạn sự như ý”, năm nào cũng như năm nào, người nào cũng như người nào, cứ lặp lại mệt nghỉ mà vẫn không mảy may cảm thấy nhàm chán và đơn điệu.

Nhưng mà, đến lần Tết Tây này, tôi lại bỗng dưng có chút hoài nghi, “Vạn sự như ý” có thật sự là một lời chúc, hay chỉ đơn thuần là một câu đầy tính mỉa mai?

Vấn đề không nằm ở người chúc hay người được chúc, phàm làm người ai chẳng mong được “Vạn sự như ý”, lại chẳng mong điều đó cũng xảy ra với những người mà mình yêu quý (người được chúc). Chuyện thành tâm, có lẽ không nên nghi ngờ mà mang tội!

Vấn đề lại nằm ở chỗ, liệu trong muôn vàn những khát khao chính đáng lẫn không chính đáng của nhân loại, có bao nhiêu điều được vận mệnh đáp ứng? Rồi khát khao của người này đôi khi lại mâu thuẫn với khát khao của người khác, vậy thì hóa ra lúc anh được như ý lại chẳng là lúc anh đang vui mừng trên sự bất như ý của người khác? Bỏ qua những cái tréo ngoe thông thường ấy đi, thậm chí có những chuyện mà hầu hết mọi người đều thành tâm mong muốn, nhưng vẫn cứ không được đáp ứng, như vụ rơi máy bay vừa rồi chẳng hạn, ai lại chẳng mong nó đừng rơi, nhưng nó vẫn rơi, mà lại là chiếc dân dụng thứ 5 trong năm!

Người ta sống vì khao khát được cái này cái nọ, song cũng lại đau khổ vì không được cái này cái nọ. Mà ở đời, trong muôn vàn chuyện xảy ra mới được một vài chuyện như ý muốn. Vậy thì, cái câu “vạn sự như ý” ấy, nghe như lời chúc phúc tốt lành nhất, hóa ra lại là câu mỉa mai cay đắng nhất.

Lật ngược lại vấn đề, giả sử trên thế giới bảy tỉ người này thật sự có một người được “Vạn sự như ý”, vậy thì anh ta hẳn là người hạnh phúc nhất thế gian rồi!

Thật ra không phải vậy, tôi lại hoài nghi rằng anh ta mới là người bất hạnh nhất thế gian! Bởi vì cái “vạn sự như ý” ấy của anh ta được đánh đổi bằng cái “vạn sự bất như ý” của sáu tỉ chín trăm chín mươi chín triệu người còn lại! Nhìn đồng loại mình đau khổ trong khi mình viên mãn về mọi mặt, liệu anh ta có còn cảm thấy hạnh phúc được chăng?

Cho nên, “Vạn sự như ý” thật ra không nên là một câu chúc, nó không đáng được đặt ngang hàng với những câu như là “An khang thịnh vượng” hay “Thanh tâm an lạc”. Bởi vì cái “an khang thịnh vượng” là do nỗ lực mà có được, còn cái “thanh tâm an lạc” lại là do ăn ở tốt mà có được, tất thảy đều có thể lấy đức mà đánh đổi, chứ không chênh vênh và thất đức như cái “vạn sự như ý”.

Người đời ưa chuộng câu chúc “Vạn sự như ý”, thật ra là vì người ta nhầm tưởng khi được “vạn sự như ý” thì con người sẽ hạnh phúc. Hóa ra lại chẳng phải như vậy, có lẽ nào vì “vạn sự như ý” là chuyện không thể xảy ra mà ngoài kia không có người ít nhất một lần trong đời cảm thấy mình thật sự hạnh phúc? Nếu suy ngẫm thật kỹ lưỡng, tôi tin sẽ có người cảm nhận như thế này, rằng vào những lúc họ hạnh phúc nhất, lại chính là lúc họ biết quý trọng hiện tại, quý trọng cái mình đang có, và biết cố gắng để vượt qua nghịch cảnh, chứ không phải vào những lúc họ cầu gì được đó. Cái hạnh phúc của việc “cầu gì được đó”, nó đáng thương đã đành, song lại còn chông chênh nữa. Thử nghĩ kỹ mà xem, nếu ở đời mà cầu gì cũng được, thì người ta còn sống vì cái gì nữa? Hầu hết mọi người đều sống vì những thứ mình không có hoặc chưa có được cơ mà!

Vậy nên, thay vì chúc nhau “Vạn sự như ý”, năm nay tôi chúc mọi người được “An khang thịnh vượng” và “Thanh tâm an lạc”, nhưng hãy nhớ rằng, cái giá trị nhất của câu chúc vẫn nằm ở chỗ tôi thành tâm mong mọi người hãy cố gắng và trải nghiệm cuộc sống để được như vậy.

Ai cũng xem trọng kết quả, nhưng cái giá trị nó lại nằm ở quá trình.

Mộc Hân

Sài Gòn, 1/1/2015

23:32

Vài nét về The Hunger Games: Mockingjay (phần 1)

Lẽ ra nên rủ ai đó đi xem Mockingjay chung, nhưng vì lịch trình của tôi dạo này nó hơi trái mùa, nên tôi quyết định đi xem một mình để khỏi câu kéo sang đến tuần sau. Quả tình, xem phim một mình rất dễ bị nghiện, nhất là khi phim vẫn còn nóng.

“The Hunger Games: Mockingjay” nguyên tác thật sự rất u ám, lên phim lại càng u ám hơn, nhưng cái đáng nói nhất là tôi lại có cảm giác xem phim thấy không đã bằng mấy phần trước. Hồi đầu, tôi cứ nghĩ là do Mockingjay bị cắt thành hai phần nên dài dòng lê thê, nhưng xem xong cả bộ phim thì thấy không phải vậy, vì nếu không cắt làm hai phần thì mấy phân đoạn diễn biến nội tâm sẽ rất nhạt và thiếu thuyết phục. Giả như mấy khúc chiến đấu với cả đâm chém nhau trong hai phần trước dù có rút ngắn hay cắt bớt cũng không sao, nhưng diễn biến tâm lý và dằn vặt nội tâm mà rút với chả cắt thì sẽ rất thảm họa. Chỉ là, nhìn chung thì phần này vẫn khá là nặng nề và thiếu kịch tính.

Về những điểm cộng và điểm trừ của phim (một cách rất sơ lược và chủ quan):

1/ Có vài tình tiết phát triển hơi khác truyện một chút, nhưng nhìn chung đều hợp lý, vì nếu giữ luôn cả mạch truyện khi phải cắt thành hai phần như thế này thì lên phim sẽ rất chán. Cụ thể như trường hợp của nhân vật President Alma Coin, rất chính trị gia, rất lừa tình, nhưng vẫn chưa kịp lộ bộ mặt thật, lại còn rộng rãi nhường hẳn sân chơi phản diện cho President Snow. Kiểu này thì có thể hy vọng ở phần cuối sẽ có bước ngoặt kịch tính cho Alma Coin, nhưng còn phải chờ xem tình tiết được lựa chọn sẽ là tình tiết nào trong truyện.

2/ Hồi đầu thấy thiên hạ có vẻ loạn xị lên về chuyện Jennifer Lawrence biết hát, trong khi chính bản thân chị thì lại tự thú là mình không biết hát. Hôm nay xem chị diễn xuất, cảm giác vẫn tuyệt vời như mọi khi, còn về giọng hát thì…cứ như sắp tắt thở vậy. Có điều, bài hát tên là “cây treo cổ” nên đúng là phải hát bằng cái giọng ấy nó mới thật! Phục chị luôn!  À tiện thể, có lẽ cũng vì phim bị cắt thành hai phần, nên khán giả được bonus thêm những cảnh nổi dậy ở các quận trên nền nhạc “the hanging tree”, xem rất là phê.

3/ Bộ sậu “đoàn làm phim + stylist + nhà sản xuất” lên phim dễ thương siêu cấp hơn trong truyện, nhất là quả đầu ngầu chất của Cressida, làm tôi rất muốn tậu ngay một quả nhưng phải kiềm chế vì sợ bị quét ra khỏi nhà.  Effie Trinket có nhiều đất diễn hơn hẳn, mà cá nhân tôi thấy phim khai thác nhân vật này theo hướng tách hẳn khỏi nguyên tác thật là một quyết định đúng đắn.

4/ Ngược lại, nhân vật Gale trên phim có vẻ ngu hơn trong truyện. Chí ít thì trong truyện, cái ngu của Gale là một cái ngu có ý thức, kiểu như biết là đôi lúc mình ngu nhưng chấp nhận cái ngu đó để được sống đúng với lý tưởng của mình, nói chung nhân vật dù không-thông-minh-lắm nhưng cũng rất nhất quán, thuyết phục và rất đàn ông. Còn cái kiểu ngu của bạn Gale trên phim là kiểu ngu lụy tình và sặc mùi ghen tuông vớ vẩn. Cái này chắc là góc nhìn cá nhân thôi, tại tôi là fan Peeta nên ai chửi Peeta tôi cũng mặc định quăng luôn vào black list.

5/ Tiện thể, Peeta phần này siêu siêu siêu thê thảm.

P.s: Đi xem phim một mình rất dễ nghiện, nhưng mà có chuyện này không thể không chửi để đòi lại công đạo cho quần chúng. Trước giờ cứ tưởng thể loại biến thái nhất có thể gặp trong rạp phim là các cặp đôi dắt nhau vô rạp nhưng không phải để xem phim (đùa chứ tiền thuê phòng khách sạn rẻ hơn giá hai vé xem phim ngày thứ 7 + bắp và nước đó mấy má). Giờ mới biết, trên đời chỉ có biến thái hơn chứ không có biến thái nhất, lại còn có cả thể loại dắt bồ đi xem phim mà con/thằng đó cóc hiểu mọa gì, cho nên đứa còn lại tự cho mình cái quyền ngồi chú thích + lồng tiếng + báo thức những cảnh kinh điển nguyên bộ phim của người ta. Ai mướn vậy mấy má? Mà phải chi nó chú thích đúng cũng không nói làm gì, đằng này cứ dăm ba phút lại la làng lên: “Sắp tới cảnh này bất ngờ lắm”, “Chi tiết này không có trong truyện”, làm mình đôi lúc cũng bị ngơ ngác không biết cái đứa đang chú thích kia nó có đọc truyện thật hay không hay là do não mình có vấn đề. Lạy các thánh, lần sau có dắt bồ đi xem phim thì cũng im miệng lại giùm cho thiên hạ thái bình.

Mộc Hân

Sài Gòn,

2:26, 23/11/2014

Viết cho Big Hero 6

big-hero-6-trailer2

Dạo gần đây tôi tìm được niềm vui mới, với những cái quen thuộc xưa cũ dường như lại lộn xộn hơn hẳn. Đi xem phim là một trong những thói quen xưa cũ ấy.

Sau hai tháng ăn ngủ điều độ, học hành nghiêm chỉnh, vùi đầu 4 tiếng/ngày trên lớp, 3 tiếng/ngày trong thư viện, 2 tiếng/ngày tự học mỗi tối,…nói chung là cả ngày không ngủ trên xe hay trên giường thì cũng là học, học, học,…tôi tự dưng thèm đi xem phim đến lạ. Thật ra xem phim cũng chả phải quyết định gì ghê gớm lắm, nếu bỏ qua cái tính dở dở ương ương và học đòi kén chọn của mình. Tôi cân nhắc mãi chẳng xong được dứt khoát là nên đi xem phim Việt để ủng hộ điện ảnh nước nhà hay là nên đi xem phim hoạt hình Disney: Hương Ga có vẻ hình sự và thu hút, còn Big hero 6 lại thuộc mảng siêu anh hùng (đúng cái mảng tôi không thích lắm). Nhưng rồi sau cùng, chính tôi cũng không hiểu tại sao vào phút chót lại chọn đi xem Big hero 6, bất chấp hàng loạt những lần cảm thấy khá hụt hẫng khi bước ra khỏi rạp vì phim của Disney.

Nhưng thật may cho tôi, lần đặt cược này lại lời gấp bội!

Trước tiên, khẳng định luôn một cách chắc chắn thế này để làm động lực cho những ai còn đang băn khoăn cân nhắc: Big hero 6 ăn đứt Frozen gần như về mọi mặt (vầng, trừ khoản âm nhạc, dĩ nhiên, vì Big hero 6 không phải phim ca nhạc). Nếu xét trên phương diện đối tượng, các bé gái có thể thích Frozen, nhưng với Big hero 6 thì trai gái gì cũng có thể thích tuốt, nói chung đối tượng được mở rộng ra hơn gấp đôi (và “bé gái già” là tôi đây cũng thích Big hero 6 hơn Frozen). So sánh đến đây thôi, phần sau sẽ dành toàn bộ cho Big hero 6.

Bộ phim vẽ ra một câu chuyện hết sức hoàn hảo đằng sau dàn siêu anh hùng hoành tráng, nói cách khác, nếu loại bỏ hẳn toàn bộ những yếu tố siêu anh hùng lấp lánh bề ngoài, ta nhận thấy phần xương sống cốt truyện của Big hero 6, từ liên kết các tuyến nhân vật, nguồn gốc của rắc rối, đến sắp xếp xung đột, rồi cách giải quyết vấn đề,…đều được xây dựng từ mạng lưới tình anh em, tình bạn, và tình cảm gia đình. Các nhân vật dù chính diện hay phản diện, dù là vai chính hay phụ, đa số đều hành động dựa trên nền tảng của ba loại tình cảm trên, cho nên khi lớp áo siêu anh hùng hay đại ác nhân được cởi bỏ, mọi hành động dù tốt dù xấu vẫn có thể được cảm thông, các nhân vật dù thiện dù ác đều hết sức gần gũi. Tôi nghĩ, ý đồ của Disney trong liên tiếp những bộ phim hoạt hình gần đây (Brave, Frozen, Big hero 6) là hướng trẻ con đến các giá trị tình cảm gia đình, bạn bè, dạy chúng cách vị tha và cách yêu quý mọi người xung quanh; nhưng Big hero 6 theo tôi vẫn là bộ phim thành công nhất, vì bên cạnh đó nó còn khuyến khích các bé học tập, định hướng sự ham thích khoa học kỹ thuật, và định nghĩa cách rõ ràng, thực tế, gần gũi hơn về siêu anh hùng. Quan trọng nhất, những định hướng ấy có vẻ không chỉ hiệu nghiệm với trẻ con, mà còn với những đối tượng “trẻ con lớn xác” như tôi đây, sống gần ¼ thế kỷ rồi mà vẫn còn mê phim hoạt hình.

Big hero 6 là một trong số những bộ phim hoạt hình hiếm hoi không có chế độ bảo kê nhân vật, do đó nó sẽ khiến bạn mới cảnh trước còn ngồi gập bụng cười phun hết cả bắp với nước ra ngoài thì ngay cảnh sau phải hả miệng khóc sướt mướt, và ai mà biết được, có thể ngay vào lúc bạn đang bùi ngùi xúc động nhất thì lại phải bất ngờ phun ra một tràng cười man rợ. Với cả Big hero 6 khác mấy mánh khóe của phim kinh dị ở chỗ khán giả sẽ không có bất kỳ dấu hiệu cảnh báo nào để nhận biết những đoạn chuyển trạng thái cảm xúc, hệ quả tất yếu là mọi người rất dễ rơi vào tình huống dở khóc dở cười, hoặc tệ hơn là vừa khóc vừa cười. Nói chung, tôi thành thật khuyên mọi người nên ăn hết bắp trước khi vào phim, kẻo không kiềm chế được (như tôi đây) thì mất tư cách lắm! :v (dù thật ra xung quanh ai cũng “mất tư cách” vậy thôi, cho nên nếu bạn không đi chung với người yêu thì đừng bận tâm giữ hình tượng làm gì)

Sau đây là phần danh mục ấn tượng:

1/ Nghề quản gia có lẽ nên được liệt kê vào danh sách những nghề nguy hiểm nhất mọi thời đại.

2/ Đừng đánh giá xuất thân của một con người qua dáng vẻ bề ngoài hoặc…cách họ mặc quần áo, nhưng hãy dựa vào đó để đánh giá đúng mức về độ điên của họ. Dĩ nhiên, hãy cảnh giác cao độ sau khi đã đánh giá xong.

3/ Nguyên lý bất di bất dịch: không có siêu anh hùng nào mà không có đại gia chống lưng, hoặc không thì siêu anh hùng đó phải là đại gia trước đã.

4/ Ở Việt Nam, người ta hay dạy trẻ con: “Đàn ông lên nào!”. Ở Disney, người ta dạy bọn trẻ: “Woman up!”. Tôi thích cách của Disney. :v

5/  Đừng bao giờ vào rạp trễ để bị mất phần đầu phim, nhưng tuyệt đối càng đừng bao giờ bỏ về trước khi phần credit chiếu xong. Hãy kiên trì đến phút chót!

Mộc Hân

Sài Gòn, 9/11/2014