Chương 10: Mưu gian kế hiểm (phần 3)

Hành lang lát đá in vàng bóng nắng, cả bọn cứ thế im lặng bước đi. Được một lúc, Dậu cung Vũ Thị Bích nói:

  • Tướng công! Đã là đầu giờ thìn rồi! Chúng ta phải sắp xếp cho bọn người đang ở dưới chân đồi nữa!

Đào Khanh không dừng bước, nói:

  • Không việc gì phải vội! Trúng phải mê dược của Đoan Đoan, ít nhất phải đến ngày mai bọn chúng mới tỉnh dậy. Ban đầu ta những tưởng sẽ ra tay nhanh gọn, ngờ đâu bọn chúng lại đang giữ Như Ý khiến cho mọi việc chậm trễ. Chúng ta chờ đến tối hãy hành động, giờ cũng đã trễ, vác bằng đó người từ chân đồi lên đây rất dễ bị người lạ phát giác.

Ba phu nhân còn lại là Bùi Thị Đào, Trần Thị Dương và Trần Thị Đình nghe Đào Khanh và Vũ Thị Bích trao đổi với nhau thì không khỏi ngạc nhiên. Trần Thị Đình đánh liều hỏi:

  • Tướng công! Chúng ta đến đây chẳng phải chỉ để trả thù thôi sao? Sao lại còn phải cất công vác bọn người ấy lên làm gì?

Đào Khanh đáp:

  • Lát nữa sẽ rõ! Giờ thì nhanh chân lên, ta muốn xem bọn Vy Vy chạy được đến đâu rồi!

Đào Khanh bước đi gấp gáp trên dãy hành lang dài hun hút, lòng không khỏi băn khoăn lo lắng. Đám thê thiếp kia đánh nhau đã đành, nhưng trong đó lại còn có cả con gái thất lạc lâu ngày của y. Năm phu nhân võ công cao cường, kẻ đáng ngại nhất chính là Trịnh Thị Đoan, người đàn bà độc chất đầy mình, thủ đoạn tàn độc mà ngay cả y đôi khi còn phải dè chừng. Y bước càng lúc càng vội, bọn phu nhân và thuộc hạ phía sau gấp rút đuổi theo, không ai dám lên tiếng. Chẳng mấy chốc, Đào Khanh đã nhìn thấy bóng dáng các phu nhân ở phía xa. Tuy vậy, y vô cùng ngạc nhiên vì dường như họ chỉ đứng yên mà không hề động thủ, y càng gấp rút đi đến gần, tai loáng thoáng nghe thấy cả tiếng trẻ con khóc. Đọc tiếp “Chương 10: Mưu gian kế hiểm (phần 3)”

Chương 10: Mưu gian kế hiểm (phần 2)

Khoảng sân rộng trước đại sảnh thường ngày tĩnh mặc yên bình, nay tràn ngập tiếng binh khí sắc lạnh hòa lẫn vào tiếng la hét rên rỉ của những kẻ bị đánh gục. Lúc này chỉ còn lại mười tám thuộc hạ Mộc Hương trang cùng Ngô Dư giao đấu với Linh cung, khoảng năm sáu người trong số đó đã bị bọn Đào Khanh đả thương từ lúc còn ở ngoài cổng sơn trang, đó là chưa kể mười tám người ấy mặc dù biết võ công nhưng nếu so với bảy chi cung chủ của Linh cung thì thật như lấy trứng chọi đá. Đào Khanh và bảy chi cung chủ cùng khoảng mười mấy thuộc hạ Linh cung số lượng áp đảo, tuy võ công chính tà lẫn lộn nhưng không đánh riêng lẻ theo kiểu một chọi một mà lại dàn trận pháp để đối phó với mười chín người của Mộc Hương sơn trang.

Kiểu trận pháp của Linh Cung biến chuyển rất linh hoạt. Sau vài chiêu thức, bảy chi cung chủ và Đào Khanh lại luân phiên hoán đổi vị trí cho nhau theo một quy luật bí ẩn. Võ công của tám người tuy khác nhau, lúc chính lúc tà, lúc cương lúc nhu, thoạt nhìn thì thấy không thể cùng đánh theo kiểu hỗ trợ, nhưng khi đưa vào trong trận pháp phức tạp mà bọn họ đang dùng, thì các môn võ công ấy lại hợp nhau một cách lạ kì, chiêu thức này bổ trợ lấp đầy khuyết điểm của chiêu thức kia, khiến cho đối phương khó tìm được sơ hở để đánh vào.

Trận pháp của Linh Cung chẳng mấy chốc đã làm Ngô Dư trở nên rối trí. Chàng vừa đánh vừa chú ý quan sát phương vị của Đào Khanh và bảy chi cung chủ, càng quan sát, đầu óc Ngô Dư lại càng hỗn loạn. Tám người của Linh Cung cứ thay nhau từng cặp một tấn công chàng, họ chỉ đấu với chàng chưa quá năm chiêu là lại dịch chuyển. Võ công của bảy chi cung chủ vốn khác nhau hoàn toàn, một số chiêu thức thậm chí Ngô Dư lần đầu nhìn thấy, chưa kịp nhận diện thì họ đã đến lượt đổi người, khiến chàng càng khó đối phó hơn. Ngô Dư cùng thuộc hạ của mình rơi vào thế bị động, vô cùng hoang mang trước cách dàn trận kì lạ của Linh Cung. Trận pháp ấy, lúc thì hình cánh cung, khi lại hình mũi nhọn, có khi cánh cung lại cong hẳn thành hình bán nguyệt bọc sát vào hai mạn trái phải của nhóm người Mộc Hương trang. Đọc tiếp “Chương 10: Mưu gian kế hiểm (phần 2)”

Chương 10: Mưu gian kế hiểm (phần 1)

Sơn trang vào buổi bình minh

Mộc Hương ngan ngát quyện mình máu tanh

Tiếng chim khóc cảnh tan tành

Hạt mưa tháng bảy song hành chia ly.

  • Tất cả nghe lệnh! Giết sạch không chừa một ai!

Giọng Đào Khanh vừa dứt, thuộc hạ Linh Cung từ bên kia khoảng sân rộng liền lấn sang giao chiến với thuộc hạ của Mộc Hương trang. Ngô Dư chỉ kịp trao cho Vân Hương một cái nhìn đầy ẩn ý, đã nghe thấy binh khí chạm nhau vang lên leng keng, Đào Khanh cũng đã kéo đến trước mặt rồi. Chàng miễn cưỡng chống đỡ từng đường gươm của Đào Khanh, đầu óc lại không sao tập trung được, chỉ còn nghĩ đến an nguy của vợ hiền con thơ.

Vân Hương thấy tình hình nguy cấp, bèn cùng ông Thịnh và năm thuộc hạ Mộc Hương trang hộ tống mẹ con Ngô Bình bỏ chạy dọc hành lang. Trong khi đó, đám người của Linh cung cùng Văn Thị Sa, Lê Thị Ngọc vẫn đang đánh nhau quyết liệt với Lã Thị Vy và Đàm Túy Dung. Lã Thị Vy trong lúc giao chiến với Lê Thị Ngọc, chợt nghĩ ra kế bảo toàn cho mẹ con Ngô Bình, bèn hét lớn:

  • Như Ý, con chạy theo sư nương của con đi!

Như Ý từ lúc thấy hai bên giao chiến, lòng đã vô cùng hoảng sợ, vừa nghe Vy phu nhân bảo bỏ chạy, bèn lập tức cắm đầu đuổi theo bọn Vân Hương. Lã Thị Vy thầm tính toán, biết dù võ công của mình và Đàm Túy Dung có lợi hại đến đâu cũng khó giữ chân bọn Văn Thị, Lê Thị cùng đám thuộc hạ lâu dài. Thuộc hạ của Thìn cung và Tuất cung từ lúc thấy hai phu nhân bất ngờ quay sang đối địch với Đào cung chủ thì lập tức hỗn loạn, không đứa nào dám đi theo hai phu nhân, cũng chẳng dám công khai chống lại hai nàng, chúng đành cùng các thuộc hạ khác tấn công đám người của Mộc Hương trang ở dưới sân. Hai nàng họ Lã và Đàm vì thế mà rơi vào cảnh lấy ít chọi nhiều, sức lực ắt sẽ càng lúc càng tiêu hao. Tuy nhiên, Lã Thị Vy thừa biết Lê Thị Ngọc và Văn Thị Sa không có gan đụng đến Như Ý, bèn vội bảo nó đi chung với mẹ con Ngô Bình. Có Như Ý, người của Linh Cung dù muốn tấn công mẹ con Ngô Bình cũng sẽ vì sợ tổn thương đến nó mà không dám làm liều. Vân Hương chỉ cần nghe lời của Lã Thị, liền nhận ra ngay ẩn ý bên trong, cô bèn nán lại chờ Như Ý cùng chạy, các thuộc hạ khác vẫn tiếp tục hộ tống mẹ con Ngô Bình chạy trước. Đọc tiếp “Chương 10: Mưu gian kế hiểm (phần 1)”

Chương 9: Phụ tử tương tàn (phần 2)

Warning: chương này hơi bị loạn! Tình hình là nên vừa đọc vừa ngó xuống cái chú thích! (Tốt nhất là cứ xem chú thích trước đi =)) )

Từ cuối hành lang, đoàn người dẫn đầu bởi một gã đàn ông ngạo mạn ngang nhiên tiến vào trang viện. Hắn chính là Đào Khanh – cung chủ Linh Cung Thập Nhị Giáp. Bọn thuộc hạ cùng đi với hắn ăn mặc hết sức sặc sỡ, tuân theo mười hai sắc áo của các Chi cung: người của Tí cung mặc y phục xám, Sửu cung mặc màu lục, Thân cung mặc màu vàng; đứng đầu Tí cung, Sửu cung và Thân cung là ba người phụ nữ trẻ tuổi, có lẽ từng là thuộc cấp của Lý Thị Hàm, Nguyễn Thị Yến và Mạc Thị Hậu. Dần cung Lê Thị Ngọc cùng thuộc cấp mặc y phục màu cam, chị em Mẹo cung và Hợi cung Trần Thị thì mặc màu lam, Tị cung Văn Thị Sa mặc màu hồng, Ngọ cung Bùi Thị Đào vận sắc tím, Dậu cung Vũ Thị Bích mặc màu đỏ, Tuất Cung Đàm Túy Dung mặc toàn màu đen. Trong đoàn lần này còn có hai phu nhân khác mà Ngô Dư chưa từng gặp qua, hẳn là Thìn cung và Mùi cung phu nhân. Trong hai phu nhân ấy, có một người so với các phu nhân khác thì trẻ tuổi hơn cả, nhan sắc tuy không quá ấn tượng nhưng lại toát lên vẻ ôn nhu lạ thường, phong thái cử chỉ cũng chẳng giống người luyện võ; nàng chỉ chừng hai mươi tuổi, mặc áo xanh đậm màu biển cả, chính là Thìn cung phu nhân, người mà Đào Khanh cưới làm vợ cách đây ba năm. Vị phu nhân còn lại thì ăn vận hết sức kỳ quặc, dùng vải sa che kín nửa khuôn mặt dưới, mình vận y phục nâu, vóc dáng tuy mảnh mai nhưng chẳng ai dám dám đứng gần, chính là Mùi cung phu nhân. Thoắt cái, phía hành lang bên kia đã choán rực rỡ sắc màu, thuộc hạ hai bên chỉ còn cách nhau khoảng sân rộng ở giữa. Đọc tiếp “Chương 9: Phụ tử tương tàn (phần 2)”

Chương 9: Phụ tử tương tàn (phần 1)

Cha con xa cách bao ngày

Tưởng rằng gặp lại sum vầy hỏi han

Nào ngờ chưa hợp đã tan

Chữ nhân, chữ nghĩa sao đành vứt đi!

Mộc Châu, tháng bảy năm Thiên Phúc thứ bảy (986).

Trời bất chợt đổ mưa, sụt sùi, rả rích. Những giọt mưa thi nhau đập rào rào lên mái ngói trang viện. Thấm thoắt, Như Ý đã ở Mộc Hương sơn trang được hai năm. Cuộc sống cứ thế bình lặng trôi qua, Ngô Dư cũng chẳng nghe thấy tin tức gì từ Linh Cung kể từ lần chàng trúng phải Hàn Độc Chỉ và Hỏa Công chưởng. Không như dự đoán của chàng, Đào Khanh đã không đến Mộc Hương sơn trang tính sổ, vì thế Như Ý vẫn chưa gặp được cha. Tuy vậy, Như Ý không lấy đó làm buồn lòng, vẫn ngày ngày vui đùa, chăm chỉ luyện Kim Yên Trận như lời Đinh Tứ Nương đã dặn dò. Lúc mới đến sơn trang, Như Ý chỉ mới năm tuổi, Ngô Dư thấy nó tư chất thông minh, lại kiên trì chịu khó, đã đem Mộc Hương quyền và Mộc Hương kiếm truyền thụ cho. Sau hai năm, quyền pháp và kiếm pháp của Như Ý tiến bộ rất nhanh. Nếu xét về nội lực, Như Ý vẫn chưa sánh bằng chị em Vân Hương – Tòng Phương, nhưng xét về kĩ thuật và sức sáng tạo, thì dường như nó có nhỉnh hơn Tòng Phương và chỉ kém Vân Hương một chút. Hai chị em Vân Hương – Tòng Phương đã luyện quyền pháp và kiếm pháp hơn tám năm, Như Ý chỉ cần hai năm, tuổi tác lại còn quá nhỏ, đã có thể đuổi kịp. Ngô Dư thoạt đầu không để tâm lắm, vì trước đây mẹ của Như Ý là Mạc Thị Hậu, vốn nổi tiếng thông tuệ khác thường, Chàng chỉ cho rằng Như Ý giống mẹ nên ngộ tính cao. Thế nhưng sau một năm, trong một lần chị em Vân Hương – Tòng Phương đang luyện tập, Như Ý đứng ngoài quan sát bỗng lên tiếng chỉ điểm cho Tòng Phương, lại có thể đoán chính xác chiêu thức mà Vân Hương mới vừa mới nghĩ ra, từ đó Ngô Dư mới dần để tâm đến tiến bộ võ công của Như Ý, càng nhận ra nó quả là một thần đồng hiếm có. 

Như Ý từ ngày học võ công Ngô gia thì không giữ cách xưng hô cũ nữa, nó gọi Ngô Dư là sư phụ, gọi vợ chàng là cô cô theo kiểu Thạch Hà phái. Ngô Dư thoạt đầu không đồng ý, nghĩ Đào Khanh sẽ không vui khi biết con gái nhận chàng làm sư phụ, nhưng Như Ý một mực giữ đúng khuôn phép, mãi một thời gian sau, Ngô Dư và Ý Phương cũng quen tai, không nhắc nhở gì nữa. Đọc tiếp “Chương 9: Phụ tử tương tàn (phần 1)”

Lục Thập Hoa Giáp ngoại truyện 1: Đỗ Quyên Máu

Ngày ấy, nàng chỉ là một cô bé con người Tày, sống ở vùng sơn nguyên Hà Giang phía bắc Đại Cồ Việt.

Ai bảo trẻ con mười tuổi không biết lo toan? Nhóc con trong bản vùng sơn nguyên sương trắng đá xanh đã phải sáng sớm theo mẹ lên rẫy làm mướn, quá trưa lại theo cha vào rừng nhặt củi. Ấy vậy mà, cô bé vẫn vui tươi, hồn nhiên như đóa đỗ quyên trên vách đá cheo leo, ít nhất thì cha mẹ luôn thấy cô rực rỡ như vậy, dù chẳng ai hay biết, thỉnh thoảng vẫn có những giọt lệ tuôn rơi thầm lặng.

Ai bảo trẻ con mười tuổi còn nhút nhát? Cô bé có thể lăn sả vào đánh đấm cào cấu bất kì đứa con trai cùng trang lứa nào dám trêu ghẹo lũ em của cô, có thể ngày ngày xách nước mấy dặm đường dốc từ suối về nhà. Thậm chí, hơn cả những lần dọa dẫm đám con nít trong bản, hơn cả những chậu nước nặng trịch mỗi ngày, có lần cô còn dám chọi đá vào một tên hào trưởng miền núi cả gan đụng đến chị gái mười lăm tuổi thuần khiết như bông hoa dại của cô.

Nếu ngày đó chẳng có một kẻ can thiệp, cô đã bị tên cường quyền đánh cho nhừ tử!

Nếu ngày đó chẳng có kẻ ra mặt trả sạch nợ nần cho gia đình cô, cô đã không ngờ nghệch theo hắn rời sơn nguyên xuống đồng bằng học võ.

Nếu ngày đó hắn không kiên nhẫn dừng chân, mọi việc sẽ tiếp tục bình thản trôi qua, cuộc sống của cô tuy cơ cực khốn khó, nhưng ít nhất sẽ không phải giả dối với chính mình.

Hắn là một tiểu thư xinh xắn, chỉ hơn cô hai tuổi, thoạt nhìn đã biết ngay là người đồng bằng. Hắn dạo chơi khắp bản, lúc nào cũng có một đám trai tráng kè kè đi theo trông chừng. Hắn vui thì cười, buồn thì nạt nộ cả bọn, nhưng kì lạ là chẳng ai dám nói lại nửa lời. Hắn vô tình đi đến một khoảng đường vắng, nơi tên hào trưởng đang trêu ghẹo chị em cô bé. Cô bé chỉ thoáng nhìn thấy cái cười nhếch mép khinh thị trên môi hắn, rồi hắn tiếp tục dửng dưng rảo bước, đám cận vệ vội vã chạy theo. Cô bé uất ức, biết người ta sẽ chẳng can thiệp, bèn cắn môi liều mạng, vốc một nắm đất đá trong tay, chạy đến chọi túi bụi vào người tên hào trưởng, vừa ném đá vừa chửi rủa ầm ĩ. Tiểu thư kia lập tức quay người, hắn tò mò đứng quan sát rồi khúc khích cười. Tên hào trưởng bẽ mặt, liền nhảy xổ vào đánh cô bé. Gã trai ấy ra tay không nương, đánh đập rất dã man, chị gái cô bé chỉ còn biết khóc lóc van xin. Cô bé tuy đau, nhưng không rên la, nhất định lì lợm không khuất phục. Sau một hồi, thấy cô bé sắp gục đi, tiểu thư nọ liền nặng lời quát mắng, sai đám cận vệ vào can thiệp. Cô bé chỉ nghe tiểu thư ấy nói loáng thoáng mấy tiếng, xem chừng là đe dọa thực sự, tên hào trưởng ấy lập tức chuồn thẳng.

Sau này, khi đã theo tiểu thư họ Trần về đồng bằng, cô mới biết thanh thế của Trần Gia Bang đã trấn áp khắp vùng miền núi phía bắc. Tiểu thư ấy là em gái bang chủ, ngang tàng xấc xược, gian ngoan xảo quyệt, đến sói rừng có lẽ cũng không đọ nổi.

Cô theo tiểu thư học võ, hầu hạ nàng ta. Khi nàng ta vui thì cùng dắt cô đi dạo, khi nàng ta buồn thì chửi mắng chẳng tiếc lời, mỗi khi nàng ta bực bội, đều đem cô ra tát vài cái để hả giận. Cô muốn phản kháng, muốn tát lại nàng, muốn cùng nàng sống chết một trận, thậm chí muốn bỏ về miền núi,…nhưng tất cả đều không thể. Cô bé nhận ra, tốt nhất đừng nên mắc nợ ai cái gì! Gia đình cô nợ đám người họ Trần ấy một khoản tiền mà bọn họ đã thay mặt trả cho địa chủ. Còn với cô, cô nợ tiểu thư ấy cả mạng sống của mình, dù cái mạng ấy chỉ là do tiểu thư tiện tay cứu giúp. Cuộc đời trả nợ khiến cô mãi mãi không còn là bông hoa đỗ quyên của núi rừng nữa.

Mười ba tuổi, nàng bị buộc đến vùng rừng núi Lâm Tây xa xôi hiểm trở. Anh trai của Trần tiểu thư, một gã bang chủ lạnh lùng tàn độc, đã ép nàng phải thề sống thề chết, trung thành với hắn, làm gián điệp cho hắn tại phủ của tù trưởng người Khau Phạ. Nếu nàng có bất kì sơ suất gì, năm người trong gia đình nàng ở vùng sơn nguyên phía bắc sẽ không được toàn mạng. Hơn bao giờ hết, nàng thấm thía nỗi đau của một kẻ buộc phải sống giả dối, buộc phải gánh trên vai sinh mạng của nhiều người. Nàng cắn răng thề thốt, cố kiềm nén những giọt nước chực trào nơi khóe mắt.

Giữa trời mùa đông giá rét, giữa màn sương muối chập chùng bủa vây và những hạt nước đóng băng bám trên cành cây khô, thứ sương trắng cắt da cắt thịt, thứ nước đá kì dị mà nàng chưa từng thấy qua trong đời, một mình nàng đơn độc giữa cánh rừng. Nàng có thể nghe thấy tiếng sói rừng tru lên trong buổi sớm mờ nhạt, có thể nhìn thấy màn sương trắng lóa lập lờ kì dị, nhưng tuyệt nhiên không thể cảm nhận được thân thể này và da thịt này còn là của nàng. Nàng kiệt quệ giữa cái rét khắc nghiệt, có muốn run rẩy cũng không còn đủ sức để run.

Đột nhiên, nàng lờ mờ trông thấy những đốm lửa khẽ chập chờn bất định, sương trắng quấn lấy chúng, dường như chúng đang ở rất gần. Làn sương từ từ tan ra, trước mắt nàng là một đoàn người ngựa đang thận trọng đạp rừng dò dẫm từng bước một, nàng cố nhếch mép cười, nhưng ngay cả khóe môi cũng đã đông cứng lại. Ý nghĩ cuối cùng của nàng trước khi buông mình vào cơn hôn mê lạnh cóng là: “Mình sẽ sống, họ sẽ cứu mình!”

Màn kịch năm ấy Trần Linh dày công dàn dựng, lại chọn một ngày sương trắng bao phủ dày đặc, quả nhiên không để lại bất cứ sự ngờ vực nào cho thủ lĩnh đoàn người ngựa ấy. Y là trưởng quan lang của người Khau Phạ, tên Hà Thanh Bình, là người sẽ kế tục chức vị tù trưởng tộc Khau Phạ trong tương lai. Hệt như Trần tiểu thư năm nào, chỉ một chút chùng chân đoái hoài đến nàng giữa tiết trời giá rét, cũng đủ để nàng mang ơn Thanh Bình cả đời. Y giữ nàng lại trong phủ, để nàng làm thị nữ cho em gái y. Tiểu thư này thùy mị đoan trang, tuy thân phận danh giá tôn quý nhưng không hề ngang tàng bạo ngược. Cuộc sống mới của nàng ở núi Khau Phạ có lẽ sẽ vô cùng tốt đẹp, nếu không có lời thề thốt với Trần Linh ngày nào.

Chẳng ai nghi ngờ nàng, Thanh Bình thậm chí còn không hay nàng biết võ công. Y tin tưởng nàng, giao em gái cho nàng chăm sóc. Mỵ Nương cũng rất thích nàng, thường cùng nàng cười đùa, dạy nàng múa những điệu của người Khau Phạ. Nhưng nàng chỉ giả vờ vô tư trước mặt họ, còn sau lưng họ lại hết sức thận trọng, nghe ngóng từng câu từng chữ, dõi theo từng hành động của họ, rồi tìm cách truyền tin cho Trần Gia Bang. Tai mắt của họ Trần trong phủ tù trưởng còn một người nữa, hắn là Đỗ Hòa, có thể tự do ra vào, tự do chạy đi nơi này nơi khác. Hắn, một mặt là cánh tay phải đắc lực của Hà Thanh Bình, mặt khác lại ngầm qua lại với người của Trần Gia Bang. Đỗ Hòa là một con cáo xảo quyệt, ngay cả nhất cử nhất động của nàng, hắn cũng không bỏ qua.

Rồi cũng đến ngày hắn phát hiện ra, ánh nhìn nàng dành cho Thanh Bình khác hẳn với những người đàn ông khác. Ngày ấy, hắn đã nắm lấy cổ áo nàng, dằn từng chữ vào tai nàng, nhắc nhở nàng về năm mạng người ở sơn nguyên Hà Giang. Nàng sợ hãi tột cùng, hoang mang tột cùng, mà cũng đau đớn tột cùng…

Mỵ Nương được lệnh vua ban hôn, nàng được chọn đi theo hộ tống. Thoạt đầu, tiểu thư đã có ý để nàng ở lại, không muốn nàng cùng đến Hoa Lư chịu khổ, nhưng vì nghe theo sự sắp đặt của Trần Linh, nàng buộc phải cầu xin tiểu thư cho nàng đi theo hầu hạ. Nói mãi, tiểu thư chẳng xuôi theo, nàng đành tìm đến Thanh Bình, nhờ y nói giúp vài câu, tiểu thư mới toại nguyện cho nàng.

Kế hoạch của Trần Linh, nàng không hề hay biết. Khi đứng trước cửa lều, nhìn thấy người con gái ngông cuồng quá quắt năm nào, nàng mới giật mình nhận ra âm mưu của Trần Gia Bang. Nàng lo sợ đến độ sắc mặt trắng bệch, tâm can hỗn loạn, chẳng biết phải làm gì để bảo toàn mọi sự. Mỵ Nương ngất đi rồi, họ cũng đánh ngất cả Thanh Bình trước mặt nàng. Nàng nghẹt thở trừng mắt nhìn, Đỗ Hòa bèn sai người trói chặt nàng, rồi chính y ngầm thầm thì dọa nạt nàng: “Cô mà làm hỏng chuyện, đừng trách ta không nương tay với quan lang!”. Nàng lặng lẽ nuốt nước mắt, nghe theo chỉ định của y.

Trần tiểu thư có lẽ vẫn chưa hay biết Trần Linh đã toan tính đưa nàng ta đến Hoa Lư từ những ngày còn ở đồng bằng. Nếu không do chính miệng Đỗ Hòa nói ra lúc còn ở khu trại, nàng cũng không thể ngờ Trần Linh lại có thể ra tay đả thương em gái mình. Nhìn thấy Trần tiểu thư phẫn uất cam chịu, nàng không nén nổi nhếch mép cười nhạt.

Điều nàng lo sợ nhất cuối cùng cũng xảy đến, Mỵ Nương phát hiện ra sự gian trá của nàng. Trước khi được Nhật Lão đem ra khỏi sơn động, Mỵ Nương đã không quên nhìn nàng bằng ánh mắt thất vọng và căm hận. Nàng không khóc, không việc gì phải khóc, mà cũng chẳng còn nước mắt để khóc. Thanh Bình đã chết rồi, Mỵ Nương tuy có cơ sống sót nhưng phải chịu cảnh bị truy đuổi, đều là do nàng gây ra, đều là do nàng ích kỉ. Tính mạng của năm người trong gia đình nàng, chẳng lẽ lại trọng hơn tính mạng của Thanh Bình và năm mươi tráng sĩ cùng mười hai thị nữ kia sao? Trần Gia Bang đã giăng sẵn một cái bẫy, không loại trừ nàng. Nàng bị lừa, bị lôi vào vở tuồng đáng sợ của bọn chúng, giờ có hối hận cũng chẳng kịp, có chống đối cũng chỉ thêm người bị sát hại. Nàng đành đến Hoa Lư, bỏ lại núi rừng Tây Bắc, bỏ lại mối tình đầu câm lặng, bỏ lại cả sự giả dối đáng thương hại của mình.

Cái ngày Trần Linh nhất quyết phải gặp cho bằng được em gái hắn ở lầu Vọng Nguyệt, nàng đã nhìn ra lối thoát cho bản thân. Trở về vương phủ báo tin cho Trần tiểu thư xong, nàng nghĩ ngay đến việc dẫn dụ Trân vương phi đến. Đêm ấy, nàng lẻn vào phòng Trân phi, chỉ để lại mảnh giấy có đề ba chữ “lầu Vọng Nguyệt”, rồi tự Trân phi cũng nghe ngóng được chuyện Ngọc phi đến viếng chùa Nhất Trụ, tự nàng ta sẽ biết cách sắp xếp ổn thỏa.

Quả nhiên, Trân phi là người thông minh, chẳng hề báo trước với Ngọc Trúc từ tối là mình cũng sẽ đi viếng chùa, nàng ta chỉ lặng lẽ chờ đến khi Ngọc Trúc rời phủ, mới sai người sang báo tin. Trân phi cố ý dàn dựng như thể nàng ta đã chậm một bước, để tiện bề theo dõi Ngọc Trúc mà không khiến bọn thuộc hạ nghi ngờ gì.

Tự biết Trân phi sẽ tìm đến lầu Vọng Nguyệt, nhưng chỉ e nàng ta ngại vào bên trong, nàng bèn lén rút trâm cài tóc của Ngọc Trúc, ném xuống gần bờ giếng. Nếu Trân phi chịu vào sâu bên trong, xem như trời đã giải thoát cho nàng.

Bậc thang ấy chẳng phải tự nhiên mà gãy, khi Ngọc Trúc và Trần Linh đều đã bước lên gác, nàng bèn cố tình dồn kình lực vào chân, vừa đủ để bậc thang ấy lỏng ra. Kế hoạch của nàng dù còn rất sơ hở, nhưng lần này số phận đã đứng về phía nàng. Trân phi đã nghe được toàn bộ câu chuyện, bậc thang đã gãy đúng lúc cần gãy, nàng cố ý phóng nhanh xuống, thoáng thấy bóng dáng Trân phi nép vào gầm cầu thang nhưng vẫn lờ đi, chạy luôn ra cửa. Trần Linh tưởng nàng đã trông thấy kẻ lạ, cũng bèn gấp rút đuổi theo. Khi đã chạy chán chê rồi mà bóng dáng kẻ lạ vẫn mịt mù, lại bắt gặp đám người của vương phủ đang đứng gần đó, Trần Linh hoảng hốt bảo nàng quay lại chỗ Ngọc Trúc. Nàng chạy về, cõi lòng dần dần thanh thản.

Nhìn thấy thái độ thất thần của Ngọc Trúc, trong đầu nàng liền nghĩ đến hai chiều hướng. Nếu nàng ta không cứu Trân phi, Trần Gia Bang có giỏi sắp xếp đến đâu cũng không thể khiến cho Lê Thám không mảy may nghi ngờ gì, địa vị của Ngọc Trúc trong vương phủ sẽ vì vụ mất tích của Trân phi mà bị lung lay ít nhiều. Đó xem ra đã là một thiệt hại to lớn với Trần Gia Bang rồi. Còn nếu Ngọc Trúc cứu Trân phi, đồng nghĩa với việc nàng ta hoàn toàn chống lại Trần Gia Bang, và nàng sẽ chính thức được giải thoát. Trong cả hai trường hợp, họ Trần sẽ chẳng có lý do gì mà nghi ngờ nàng, chắc chắn sẽ không làm hại đến gia đình nàng.

Nhưng khi siết lấy cổ Trân phi, nàng biết Ngọc Trúc nhất định sẽ không đứng yên. Nàng yêu Thanh Bình nhưng không dám vì y mà phản lại Trần Gia Bang, nhưng Ngọc Trúc thì khác, nàng ta mạnh mẽ hơn nàng, thông minh hơn nàng, ắt sẽ phải biết nên làm gì để không phụ lại sự hậu đãi của Trân phi và Lê Thám. Hơn hết, Ngọc Trúc lại đang mang trong mình giọt máu với người mà nàng ấy hết mực yêu thương.

Khi con dao găm trên tay Ngọc Trúc cắm phập vào lưng nàng, là lúc nàng cảm thấy hạnh phúc nhất trong đời. Máu nóng tuôn ra, tim lập tức ngừng đập. Cuối cùng, nàng cũng đã có thể thầm nói hai tiếng “cảm ơn” với cô gái ấy, người đã cứu mạng nàng ở sơn nguyên năm nào, người đã lôi nàng vào vòng giả dối đáng kinh tởm, cuối cùng cũng chính là người giải thoát nàng khỏi cuộc sống vô vọng. Mọi ân oán nợ nần, với nàng đến đây là dứt!

Chương 8: Hồi tâm

Tạo nghiệp tác ác chưa lâu,

Sáu mươi ba mạng đêm thâu tìm về.

Nay vì trọn nghĩa phu thê

Quẳng đi trăm sự nặng nề hồi tâm

Từ trong bóng tối dưới gầm cầu thang, Trân phi khập khiễng từng bước lộ diện, đi đến gần Ngọc Trúc và Tiểu Hoa. Nàng trừng mắt nhìn hai người họ, dòng lệ nóng chứa cả lo âu cùng thịnh nộ, căm phẫn cùng xót xa, cứ thế chảy dài từ khóe mắt. Nàng tiến tới một bước, Ngọc Trúc lại lùi lại một bước, ánh mắt nàng ta trừng trừng hoảng loạn, như thể nàng ta có thể cảm nhận đau đớn và uất hận của nàng. Đổi lại, nàng cũng cảm nhận được sự bất lực của nàng ta khi nàng ta bối rối lắc đầu, hay khi mấp máy môi toan giãi bày những khổ tâm thầm kín, nhưng rồi cuối cùng nàng ta lại bật khóc trong câm lặng.

Tiểu Hoa không như Ngọc Trúc, trước sau chỉ lạnh lùng quan sát, thái độ dửng dưng đáng sợ.

Trân phi khinh thị nhìn Ngọc Trúc và Tiểu Hoa, khóe miệng nhếch lên cười nhạt, giọng nhẹ hẫng:

  • Nếu cô còn chút lương tâm, hãy nghĩ cho đứa trẻ trong bụng, đừng làm hại đến cha nó. Ta chết rồi sẽ không tìm cô trả oán.

Một cơn ớn lạnh trườn dọc sống lưng Ngọc Trúc, khiến nàng sụp xuống thất thần trên nền đất đóng bụi lạnh lẽo.

Tiểu Hoa không chút nao núng, lập tức lao đến chỗ Trân phi, một tay tóm lấy thân hình mảnh mai của nàng, tay kia vòng qua cổ nàng siết thật chặt. Trân phi không chống cự, chỉ mở mắt thật to, từ từ cảm nhận cái chết đến với mình. Nàng nghe thấy cổ họng nghẹn cứng, đau đớn và đặc nghẹt, thân hình co giật càng lúc càng mạnh, thần trí cũng dần hỗn loạn mơ hồ, nhãn quang âm u mờ ảo, chỉ còn nhìn thấy độc một màu trắng toát kinh dị. Rồi đột nhiên, một âm thanh ma quái lọt vào tai nàng, tựa như tiếng thét chói tai, lại tựa như tiếng rên rỉ thảm thiết. Thân hình nàng từ từ lỏng dần, đoan chắc mình đã đến chốn địa phủ.

Khi cơn hoa mắt qua đi, nàng ngạc nhiên nhận ra trước mặt vẫn là quang cảnh bên trong lầu Vọng Nguyệt, nhưng không nhìn thấy cả Ngọc phi lẫn Tiểu Hoa đâu, bèn theo phản xạ quay nhìn tứ phía, tức thì kinh khiếp trước cảnh tượng ngay sau lưng mình.

Ngọc phi đứng bất động, hai tay buông thõng, mắt nhìn chằm chằm vào Tiểu Hoa, vạt áo trước đầy những tia máu. Tiểu Hoa đã nằm im lìm trên nền đất, mắt trợn trừng mở to, con dao găm khi nãy còn nằm trên tay Ngọc Trúc giờ đã cắm sâu trên lưng Tiểu Hoa, máu loang ra ướt thẫm cả tấm áo. Tiểu Hoa đã chết! Đọc tiếp “Chương 8: Hồi tâm”

Chương 7: Mưu sự bại lộ (phần 2)

quang cảnh chùa Nhất Trụ hiện nay với cột kinh cổ nhất Việt Nam

Mới sáng sớm, Chùa Nhất Trụ đã vắng vẻ hơn thường ngày, cả hai vị thiền sư là Vạn Hạnh và Khuông Việt đều được triệu vào cung bàn luận việc đón tiếp sứ giả phương Bắc, không có buổi thuyết pháp sớm nên khách vãng lai cũng ít hẳn, ngoài sân chỉ có vài ba nhà sư già đang quét lá khô, số còn lại đều đang dự buổi tụng kinh sáng ở mái điện bên bờ hồ sen. Trân phi chẳng muốn phiền đến việc dọn sân của các nhà sư, bèn lặng lẽ tiến thẳng vào điện Tam Bảo tìm Ngọc phi.

Ban sớm, nàng đã sai người sang bên Ngọc phi báo sẽ cùng viếng chùa, chẳng ngờ nàng ấy đã đi trước từ lâu, nàng đành tự mình đến chùa Nhất Trụ. Khi còn cách chùa một khoảng, nàng đã trông thấy mấy tên thị vệ của Ngọc phi đứng đợi ở ngoài, bèn mừng thầm cho rằng mình đến vẫn chưa quá muộn. Nào ngờ, vào đến điện Tam Bảo rồi, nàng vẫn chẳng thấy Ngọc phi đâu. Nghĩ rằng nàng ấy lần đầu đến chùa, hẳn là đang dạo chơi đâu đó, Trân phi bèn thong thả thắp hương cầu an. Bái lạy xong xuôi, nàng nhân lúc trời còn sớm, bèn tản bộ ra phía sân sau chùa Nhất Trụ, vừa thăm thú vườn tược, vừa đi tìm Ngọc phi.

Nàng đi khắp lượt hồi lâu, vẫn không thấy bóng dáng Ngọc phi. Nhẩm tính mình vào chùa đã lâu, biết đâu Ngọc phi đã rời khỏi trong lúc nàng còn ở Phật điện, nàng bèn đi trở ngược ra cổng. Đang khi thong dong băng ngang hồ sen, chợt nghe thấy tiếng tụng kinh vọng đến từ ngôi điện lớn bên kia hồ, lại không phải tiếng Phạn mà hình như là tiếng Hán, nàng liền tò mò dừng bước lắng nghe, thì ra các nhà sư đang đọc một bài kệ. Tông giọng trầm đều của mười mấy nhà sư âm vang trong không gian chùa chiền tĩnh mịch, bài kệ thi bốn câu cứ thế truyền sang phía bên kia hồ:

“Thân như điện ảnh hữu hoàn vô,

Vạn mộc xuân vinh, thu hựu khô.

Nhậm vận thịnh suy vô bố úy,

Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.

 

(Thân người như ánh chớp có rồi không,

Cây cỏ tiết xuân tươi, tiết thu lại héo.

Đã tu đến trình độ nhậm vận thì không sợ hãi trước thịnh suy dời đổi.

Thịnh suy như giọt sương đọng trên đầu ngọn cỏ) (8)”

Trân phi lẩm nhẩm đọc theo bốn câu kệ, bất giác trỗi lên nỗi lòng hoài cố nhân, bèn trầm mặc nói: Đọc tiếp “Chương 7: Mưu sự bại lộ (phần 2)”

Chương 7: Mưu sự bại lộ (phần 1)

Sự đời dời đổi ai hay?

Cây kim trong bọc có ngày lộ ra.

Dẫu cho chước quỷ mưu ma,

Nhân nào quả ấy, chính tà phân minh.

Tượng hoàng hậu Dương Thị (Dương Vân Nga) trong đền vua Lê Đại Hành ở Hoa Lư

Một buổi chiều, Trân phi Dương Thị Hoa an nhiên ngồi bên vuông cửa sổ ngắm hoàng hôn. Mặt trời vừa khuất dạng dưới lớp mái ngói đỏ ửng, những tia sáng yếu ớt cuối cùng hắt vào phòng, nàng chưa vội thắp nến, để mặc ánh chiều tà kéo mình vào hồi ức.

Lúc nàng còn rất nhỏ, cả cha và mẹ đều bất hạnh qua đời do chiến loạn mười hai sứ quân. Trong tộc họ Dương khi ấy, có người được gả cho Đinh Bộ Lĩnh, tên là Dương Thị Vân (1), xét về thứ bậc là chị họ của nàng. Năm nàng lên mười, Đinh Bộ Lĩnh thống nhất Đại Cồ Việt, lên ngôi hoàng đế, Dương Thị Vân cũng được tôn phong làm hoàng hậu. Hoàng hậu Dương Thị thương nàng côi cút, bèn đưa về làm cung nữ ở cung điện riêng của mình là điện Long Lộc. Nàng tính tình khiêm nhường tháo vát, rất được lòng Dương hoàng hậu, vì vậy mà cũng được phép đi lại trong cung có phần tự do hơn các cung nữ khác.

Nàng vẫn còn nhớ như in buổi sáng hôm đó, nàng cùng các cung nữ đến hồ hái sen như thường lệ, nào ngờ giữa đường bị trúng nắng, đành quay về điện Long Lộc. Khi đến nơi, nàng chưa kịp mở cửa bước vào, đã bị một người từ phía sau bịt miệng lôi đi. Y hành động rất bất ngờ và dứt khoát, khiến nàng không kịp mảy may phản ứng. Xung quanh điện Long Lộc vắng vẻ lạ thường, cung nữ hết thảy đều ra hồ sen, cả thị vệ cũng chẳng thấy bóng dáng, người lạ lôi nàng đi băng băng qua mấy khúc ngoặt mà nàng vẫn không nhìn thấy ai để cầu cứu, lòng càng thêm hoảng sợ khôn nguôi. Bỗng dưng, kẻ lạ giữ nàng đứng lại ở một góc hành lang vắng vẻ, nói nhỏ vào tai nàng: Đọc tiếp “Chương 7: Mưu sự bại lộ (phần 1)”

Chương 6: Tương kế tựu kế (phần 3)

Sáng hôm sau, khi Ngọc Trúc tỉnh dậy, Lê Thám đã không còn nằm bên cạnh nàng nữa. Tiểu Hoa nói y đã về Đại Điện từ rất sớm để chuẩn bị vào cung chầu vua. Trước khi rời khỏi, y có dặn dò Tiểu Hoa chăm sóc nàng, còn nói đến chiều sẽ quay lại. Ngọc Trúc nghe xong chỉ thở dài, lòng thầm mong y thật sự sẽ quay lại.

Chiều hôm đó, chờ mãi không thấy Nhân Trí Vương đến, Ngọc Trúc bèn ra vườn chăm sóc cây cối như thường lệ. Từ lúc còn nhỏ, nàng đã không có hứng thú với hoa cỏ, bởi tính nàng không thích lòe loẹt, cũng không ưa điệu đà khoe sắc; nhưng khi đến vương phủ ngày ngày buồn chán, mà cạnh Tây Điện lại có một khu vườn, nàng mới tập tành tưới nước, tỉa lá, bắt sâu, trồng cây để quên đi sầu muộn. Vườn tược xung quanh Tây Điện trồng rất nhiều hoa, từ khi nàng dọn đến đều được thay bằng những loại cây có hoa rất nhỏ, màu rất nhạt, khiến cả khu vườn dường như chỉ thuần một màu xanh, không có ong, cũng chẳng có bướm, chỉ có chim chóc kéo đến ríu rít suốt ngày.

Sau khi đã chăm sóc hết lượt cây cối mà Lê Thám vẫn chưa đến, nàng đành đi đi lại lại trong vườn để khỏi bồn chồn mong đợi. Chân bước bâng quơ trên con đường hẹp lát đá trắng trải khắp khu vườn, nàng lại hồi tưởng khoảnh khắc đêm qua khi vùi đầu vào lồng ngực y mà ngủ, lòng trỗi lên bao xúc cảm dạt dào. Cả ngày hôm nay, dù đã nhiều lần tự vấn lẫn rủa sả bản thân, nàng vẫn không thể thôi nghĩ về Lê Thám, thỉnh thoảng còn giấu mặt mỉm cười một mình, sợ Tiểu Hoa trông thấy.

Nhớ rồi lại lo, tương tư rồi lại trĩu nặng, lời Nhân Trí Vương nói với nàng chỉ mới hôm qua thôi, làm sao nàng có thể quên ngay được!

“…chỉ cần nàng đối với ta thật lòng thật dạ, ta nhất định sẽ không để nàng phải chịu thiệt thòi…”

Bốn tiếng “thật lòng thật dạ” cứ quấn lấy tâm trí nàng, khiến nàng day dứt khiếp sợ, lại trăn trở đau thương. Nàng mơ hồ nhận ra, dường như y đã nảy sinh ngờ vực với nàng, còn nàng lại dường như đã trót phải lòng y. Đọc tiếp “Chương 6: Tương kế tựu kế (phần 3)”