Dạ Cổ Hoài Lang – bi kịch tha hương

Đôi dòng giãi bày! Ngót nghét mà đã hơn nửa năm tôi không đi xem kịch, càng đáng trách hơn là đã hơn một năm cộng thêm cái ngót nghét nửa năm ấy tôi không viết bất kỳ bài cảm nhận nào cho kịch. Âu cũng là do bản tính lười nhác, yếu bóng vía, không đọ lại nổi những cái sân si tầm thường ở đời, tâm không tịnh, đầu óc không thanh thản, nên không làm sao viết được cái gì ra hồn. Nhưng ở đời, không ai có thể chạy trốn bản chất của mình cả đời, mà nhất là chạy trốn nó chỉ để theo đuổi những cái phù phiếm nhất thời, cho nên dù có bỏ đi xa đến đâu, cuối cùng tôi vẫn thấy mình vòng về sân khấu, vòng về cái nơi cho tôi được sống những tháng ngày thanh xuân đúng nghĩa. Hôm nay là ngày lễ tình nhân, tôi lại đi xem kịch, nhưng không phải đi với tình nhân, cho nên đời này mạn phép được xem kịch như tình nhân vậy. Ấy là chưa kể, vở hôm nay tôi xem tên là “Dạ Cổ Hoài Lang”, với tôi nó lại chuyển nghĩa thành “có nhớ thì mới tìm về”, thật ý vị biết bao!

Lần trở lại này với tôi có rất nhiều ý nghĩa, thậm chí nếu bỏ qua cái khoảng hơn nửa năm đã nói ở trên thì bản thân vở “Dạ Cổ Hoài Lang” cũng lập khá nhiều kỷ lục trong suốt bốn năm tuổi đời tôi miệt mài ở khán phòng sân khấu. Trước hết, đây là vở bi kịch đầu tiên tôi được xem, nếu tính cả vở “Bí mật vườn Lệ Chi” thì vở này vẫn ăn đứt về cái khoảng u ám và bế tắc. Thứ đến, đây là vở ít diễn viên nhất tôi từng xem, từ đầu đến cuối vỏn vẹn chỉ có 4 nhân vật vừa có thoại vừa có hình, nếu tính cả những vai có thoại không hình thì cũng chỉ có 5 nhân vật. Tiếp theo, đây là vở đầu tiên tôi xem ở sân khấu số 7 Trần Cao Vân, góc nhìn có vẻ ổn hơn so với sân khấu Idecaf và nhà hát Bến Thành. Cuối cùng, đây là vở khiến tôi phải khóc nhiều nhất, nếu tính gộp cả phim và kịch thì đây vẫn là lần khóc nhiều nhất (Vầng! Khóc thấy cha thấy mẹ luôn!).

Được biết “Dạ Cổ Hoài Lang” vốn là một vở kinh điển, lần này chỉ là tái diễn, qua bao bận sóng đời đẩy đưa, trong số các diễn viên từng đóng vở này, người ở lại đến tận hôm nay cũng chỉ còn có NSƯT Thành Lộc, còn thì thay diễn viên hết cả. Tôi sinh sau đẻ muộn, với cái nghiệp mê xem kịch thì lại càng muộn mằn ít tuổi, cho nên chưa kịp có cái duyên xem vở này từ trước với dàn diễn viên cũ. Thì thôi duyên đến lúc nào ta đón nhận lúc ấy, tạm bỏ qua những cái so sánh hay dở thường tình giữa các thế hệ, hôm nay tôi chỉ nói đến vở “Dạ Cổ Hoài Lang” với những Thành Lộc, Hữu Châu, Vân Trang và Lương Thế Thành.

Để tiện nhập đề, có lẽ trước tiên nên nói về những cái ám ảnh nhất của vở kịch.

Dù khái niệm “quê hương” được nhắc đi nhắc lại khá nhiều lần, cái đọng lại sau cùng thật sự vẫn là khái niệm “tha hương”. Ở đây, “tha hương” không chỉ có nghĩa là rời ra đất mẹ, tha hương còn có nghĩa là lạc mất gia đình, dù thật ra họ vẫn đang sống sờ sờ trước mắt. Cái “tha hương” của “Dạ Cổ Hoài Lang”, nó thê thiết lắm, bi thảm lắm, bởi vì nó cho ta nhìn thấy “biệt ly” trong “đoàn tụ”, bằng lối dẫn dắt đi đến tận cùng của cô độc, của mất mát, của thương tâm, ngay cả khi con người ta vẫn còn có một nơi mà họ tưởng đó là “gia đình”.

Bên cạnh đó, bi kịch của “Dạ Cổ Hoài Lang” còn được điểm xuyết thêm bằng những nghịch lý, tuy nhói lòng nhưng cũng rất trung thực và công bằng. Trung thực ở chỗ nó đặc tả rất đúng hoàn cảnh của những người xa xứ ở cái tuổi gần đất xa trời, mà thông qua ngôn ngữ sân khấu, cái hoàn cảnh ấy được nhấn nhá đến ám ảnh bằng chi tiết bức tranh quê hương được vẽ trên tấm vải chắp vá từ những miếng ga trải giường ở viện dưỡng lão, hay chi tiết tự kỷ ám thị những cái ống khói vô hồn thành người phụ nữ mặc áo dài đội nón lá của một ông già thất thập cổ lai hy,… .  Còn công bằng ở chỗ nó không đánh đồng tha hương lên tất cả những người xa xứ, mà thông qua quy luật nhân quả ở đời, nó chỉ kết luận một cách lấp lửng rằng tha hương như một cái giá phải trả cho những hành động sai lầm trong quá khứ. Nhân vật ông Tư tưởng như tha hương, suy đến tận cùng lại không phải là người bị quê hương chối bỏ, lại cũng không phải là đối tượng gây ra bi kịch, kết cục của ông đơn thuần chỉ là kết cục của một người quá nặng lòng với cái mà những người thân thuộc của ông đều ra sức chối bỏ – một lần nữa, lại là quê hương!

Nếu ngẫm kỹ hơn, bi kịch chỉ mới bắt đầu từ khi vở kịch kết thúc, khi ông già đơn độc nằm lại giữa trời gió tuyết và khán giả có thể hiểu rằng ông đã kịp nghe những lời thành tâm ân hận từ một nạn nhân khác của bi kịch, thì những điều kinh khủng nhất chỉ vừa mới bắt đầu với nhân vật thứ năm – chủ nhân cuốn nhật ký. Chính cái nút thắt mãi mãi không được tháo gỡ đó đã để lại bế tắc cùng bất lực, biến một vở chính kịch thành bi kịch, đẩy mọi tình tiết đi vào tuyệt lộ – không còn đường vãn hồi. Trong trường hợp này, cao trào nằm ở tận cùng vở diễn, hệt như phía cuối con đường là vực thẳm vậy.

Ơn trời, “Dạ Cổ Hoài Lang” không chỉ có quặn lòng cùng nước mắt, nó còn có những điểm sáng thông qua nhân vật của Lương Thế Thành, có những màn đối đáp hài hước rất duyên giữa nhân vật ông Tư của chú Thành Lộc và ông Năm của chú Hữu Châu, để xen giữa những lần khóc hết nước mắt, khán giả còn được cười thả ga, được hy vọng, được an ủi.

Ấy là về các tầng ý nghĩa của vở, còn nói về trình diễn, có lẽ tôi không nên lạm bàn chuyện diễn xuất, bởi lẽ đến những người đã từng xem vở gốc với dàn diễn viên cũ cũng đã tỏ ra hài lòng hơn hẳn về phiên bản mới này, thậm chí mấy cô lớn tuổi còn không ngại khen nức nở hai bạn diễn viên trẻ ngay khi chưa kịp rời khán phòng. Vì vậy ở đây, tôi xin mạn phép dành thời lượng để nói về cái sướng của mình khi được xem trình diễn kép. Ai cũng biết chú Thành Lộc xuất thân từ gia đình có truyền thống nghệ thuật nói chung và anh chị em nhiều người theo bộ môn cải lương nói riêng, bản thân chú lại thăng hoa trên “mảnh đất” kịch nói, cho nên cái duyên được xem chú vừa diễn kịch, vừa xướng hẳn một bài ca cổ, không chỉ một lần mà đến hai ba lần trong một vở diễn, thì thật rất đáng trân trọng, rất đáng nhớ, và cũng rất đáng sướng. Cần nói thêm là bài Dạ Cổ Hoài Lang được xướng trong vở kịch là bài gốc của cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu, với ca từ nguyên bản mang hơi hướng cổ phong. Lời ca mộc mạc lần đầu cất lên không nhạc đệm, người xướng ca lại mặc bà ba trắng, càng tô đậm cái chất tài tử Nam Bộ trộn lẫn vào cái chất cô đơn lạc lõng giữa bối cảnh đất khách quê người. Đến lần thứ ba, Dạ Cổ Hoài Lang được xướng không trọn vẹn, bị bỏ ngõ như nút thắt ức chế của vở kịch, và cũng vẫn không có nhạc đệm, hệt như ca cổ thiếu đờn kìm, như chồng thiếu vợ, như người xướng hát thiếu người tri âm. Bản cổ nhạc vốn dĩ đã buồn da diết, nay lại càng thêm phần ám ảnh khôn nguôi.

Có lẽ từ nay về sau, mỗi lần nghe lại Dạ Cổ Hoài Lang, bên cạnh cái cảm thương cho lời người chinh phụ, tôi sẽ còn phải da diết với tiếng lòng của người đàn ông tha hương mất vợ trong vở kịch “Dạ Cổ Hoài Lang”.

Mộc Hân,

Sài Gòn, 2:38,

15/02/2015.

Tổng hợp kịch Tết Idecaf: Hồn bướm mơ điên – Xóm vịt trời – Độc chiêu

Kich Tet 2013

Cứ mỗi độ xuân về, tôi lại đi xem kịch. Nói vậy cho hợp không khí thôi, chứ thật ra cả năm lê la điên loạn ở Idecaf thì đâu có tính là “mỗi độ xuân về” được, nhỉ! Nhưng thôi kệ vậy, dù sao thì Tết cũng đi xem với mật độ dày đặc hơn bình thường, nên cũng gọi là có một chút khác biệt.

Vì đây không còn là giai đoạn làm quen với loại hình sân khấu như năm ngoái, nên sẽ rất khó tránh được so sánh. Tuy vậy, cũng cần phải nói thêm, vì thích nên mới so sánh, so sánh trên tinh thần tích cực, có khen có chê cho cảm xúc đa dạng, và quan trọng đây hoàn toàn là cảm nhận chủ quan, đọc để hớn chung thì được, đừng bao giờ đem đặt vào một chuẩn mực nào đó.

Nhìn chung, kịch Tết của Idecaf năm nay rất có không khí, một trong những điểm sáng rất đáng ghi nhận. Nếu so với ba vở mà tôi từng xem năm ngoái, là “Một ngày làm vua”, “Tía ơi má dzìa” và “Lẩu trăn”, thì ba vở nổi trội năm nay là “Hồn bướm mơ điên”, “Xóm vịt trời” và “Độc chiêu” (Tức “Miêu nữ hí miêu gia) có phần dàn dựng, phục trang, bối cảnh và âm nhạc tốt hơn hẳn, sáng hơn hẳn. Đọc tiếp “Tổng hợp kịch Tết Idecaf: Hồn bướm mơ điên – Xóm vịt trời – Độc chiêu”

[Kịch] Vua Thánh triều Lê: câu chuyện giải oan hay nghệ thuật ứng xử chính trị

nguồn ảnh: FB Idecaf FC

…Không hoàn toàn là một bài cảm nhận, cũng không hoàn toàn là một bài fangirl bấn loạn [phong cách chủ đạo của những bài review kịch nói ở blog này], lần này có thể tạm gọi là, vài dòng trải nghiệm theo cách thức khác biệt sau khi xem vở kịch “Vua Thánh Triều Lê” (nói thế có nghĩa là, hãy cảnh giác vì ở đây không có giới hạn)…

…Nội dung, tư tưởng chứa trong bài viết này là thành quả của nhóm Hỏa Đăng Lâu, và tôi là người chấp bút…

Một cách chân phương nhất, có thể khẳng định, Vua Thánh triều Lê là một vở kịch xuất sắc toàn diện: Kịch bản xuất sắc, diễn xuất xuất sắc, âm nhạc xuất sắc, biên đạo xuất sắc, thiết kế sân khấu xuất sắc. Tất cả những yếu tố xuất sắc ấy, cộng hưởng với một cốt truyện liền mạch khúc chiết cùng một cái kết triệt để, đã làm nên một vở kịch trọn vẹn, để lại dấu ấn trọn vẹn cho cả sân khấu Idecaf nhân dịp kỉ niệm 15 năm hoạt động nghệ thuật và cho cả những khán giả may mắn đã quyết định đặt vé thưởng thức vở diễn này. Đọc tiếp “[Kịch] Vua Thánh triều Lê: câu chuyện giải oan hay nghệ thuật ứng xử chính trị”

“Bí mật vườn Lệ Chi”: từ đen đến trắng hay bi kịch của sự bất lực.

“Mười bốn hái vải, hai chín hái lê.

Anh ơi hãy về khi mùa lê chín, khi vải trĩu cây khi tình mình còn đầy anh nhé…”

(Hy Minh)

 

Và sau đây là tường thuật hành trình hái vải…

Lần đầu tiên mình đi xem chính kịch, thật may mắn, lại là một trong hai vở kịch lịch sử được đầu tư kĩ lưỡng về mọi mặt, nhằm chào mừng kỉ niệm 15 năm thành lập sân khấu kịch IDECAF. “Bí mật vườn Lệ Chi” đã từng được công diễn 2 đợt vào năm 2002 và 2007, nên không hẳn là một vở mới. Tuy nhiên, hồi đấy mình còn rất bé và chưa có điều kiện tài chính để đi xem kịch, nên tính ra vở này vẫn mới đối với mình; đó là chưa kể dàn diễn viên đã có ít nhiều thay đổi, chắc chắn kéo theo thay đổi không khí vở kịch. Đọc tiếp ““Bí mật vườn Lệ Chi”: từ đen đến trắng hay bi kịch của sự bất lực.”

[Kịch Tấm Da Hổ] Mình nhức đầu quá…

Mọi nỗ lực viết review một cách đúng nghĩa sau cùng cũng thất bại!

 

Năm xưa Nguyễn Công Trứ từng vì thời cuộc mà cảm thán:

Kiếp sau xin chớ làm người

Làm cây thông đứng giữa trời mà reo…

Làm thông reo vi vu, suy cho cùng, cái tâm cao khí ngạo đến ngất ngưỡng của cụ Trứ vẫn không bị hao mòn theo luân hồi. Nay fangirl học theo cụ (mà điển hình là mình), xem xong “Tấm da hổ” chỉ muốn cảm thán:

“Kiếp sau nếu không được làm người (vì tội nghiệp quá nặng) thì nguyện làm một cây lê hoa trắng nơi bìa rừng Tây Bắc (ớ hay quá mình cũng họ Lê)! Còn nếu vẫn được làm người, ok, em sẽ tiếp tục cái nghiệp fangirl đến cùng!” Đọc tiếp “[Kịch Tấm Da Hổ] Mình nhức đầu quá…”

Lẩu Trăn_méo mặt cười, ngây người nghĩ

Vài dòng lảm nhảm:

Cuối cùng thì cũng vác mặt đi coi vở Lẩu Trăn, dù tâm trạng chiều nay nó rất là…khó nói! *emo cười ý nhị*

Nhìn chung, trong vòng một tuần trở lại, có lẽ mình đã điên cuồng đủ cho cả một năm rồi! Thôi thì, dù sao sắp tới đây có chạy đằng trời cũng không thoát khỏi tiểu luận, đề tài, kế hoạch, thực tập,… các kiểu, lại còn vướng vào phi vụ viết lách dài hạn trước khi mặt đối mặt với màn chọn đề tài làm khóa luận tốt nghiệp! Tự an ủi: vô năm mình ứ có thời gian bay nhảy bấn loạn cùng những điều tuyệt vời nằm ngoài phạm vi học tập và công việc, thôi thì còn một ngày nghỉ Tết, điên cho tới nơi tới chốn vậy!

Trong trường hợp này, khi chọn chơi bời cùng Mai muội, không hẳn chỉ là điên cuồng bình thường, mà phải gọi là điên cộng hưởng nó mới sát nghĩa! Đọc tiếp “Lẩu Trăn_méo mặt cười, ngây người nghĩ”

Tản mạn về nghệ sĩ-sân khấu, hay cảm nhận về vở kịch “Một ngày làm vua” và “Tía ơi má dzìa”

tấm này Mai muội vẽ chứ mình không có hoa tay thế này đâu

Vài lời tâm tình:

Kịch hết, người tan, màn đỏ khép lại, tôi và cô bạn thân rủ nhau tìm đường lẻn vào cánh gà sân khấu.

Với mong ước được một lần nhìn thấy người nghệ sĩ bằng xương bằng thịt, được làm những việc đúng với vị trí của người hâm mộ như chụp ảnh, tặng hoa và xin chữ kí; chúng tôi háo hức chuẩn bị vẽ tranh thậm chí từ ba ngày trước khi đi xem kịch, chuẩn bị sẵn cả tâm lý nếu chẳng may không lẻn vào được mà bị bảo vệ đuổi ra thì đành phải ôm hoa và tranh về nhà tự kỉ.

Ơn trời, người ta bảo năm nay tuổi Mùi xui lắm, nhưng chắc vì 2 con dê đi chung với nhau nên xui với xui lại thành hên, sau cùng chúng tôi cũng được thỏa lòng mong đợi. Cô bạn tôi tỉ mỉ vẽ hình anh vào giấy từ ba ngày trước, tôi chẳng có gì ngoài sự hâm mộ [âm thầm] và cả một chút hiếu kì. Sau khi gặp được anh, người nghệ sĩ có trái tim nhiệt huyết trong một vóc dáng bé nhỏ, có lẽ tôi nên viết vài dòng ngắn ngủi, không chỉ dành cho anh, mà còn cho tất cả những nghệ sĩ đã đứng trên sân khấu trong mùa Tết năm nay! Đọc tiếp “Tản mạn về nghệ sĩ-sân khấu, hay cảm nhận về vở kịch “Một ngày làm vua” và “Tía ơi má dzìa””

Đầu năm đi xem hài kịch [Một ngày làm vua]

Nói nhảm trước khi lao đầu vào ổ bấn loạn bên dưới: Đây chẳng phải lần đầu tiên mình đi xem kịch, nhưng tình thật thú nhận thì đã qua [quá] lâu rồi cái thời theo ba mẹ đến nhà văn hóa quận (mười mấy năm qua kí ức nhạt nhòa *thở dài*). Thế nên lần này tự mò đến nhà hát, có thể xem là màn tái xuất giang hồ đầy ngoạn mụcnghẹt thở. Còn vì sao nó ngoạn mụcnghẹt thở thì bàn sau vậy! Đầu năm đầu tháng, đi đâu không đi lại lao vào ổ hài kịch cười sặc sụa với đủ các thể loại “ẩn dụ” hại não. Mà dùng từ ẩn dụ vậy thôi chứ thật ra nó cứ gọi là “dùng vải mút-xơ-lin che mắt thánh”, “thánh” ở đây chính là hai vị trình SA cao ngút trời cùng mình đi xem kịch. Nhờ hai vị ấy mà level của mình sau vụ này cũng tăng đáng kể!

Ờ, riêng bài này thì mình sẽ “quăng hàng” cuối bài chứ không đẩy lên đầu như thường lệ đâu!

Warning: Nói chung là đặt cái warning này ở đây là không cần thiết, nhưng vì sợ rằng đâu đó có ai đó thường hay im hơi lặng tiếng vào nhà mình đọc entry nhưng xui rủi thế nào lại không cùng chí hướng fangirl với mình mà đụng phải bài này thì …ô hô ai tai! Mình tô đậm lẫn gạch chân và in nghiêng key word luôn rồi, ai lỡ không hiểu thì ráng chịu nhé! Mình không chịu trách nhiệm đâu! Đọc tiếp “Đầu năm đi xem hài kịch [Một ngày làm vua]”