Chương 32: Sư đồ (phần 1)

Sư đồ nghĩa nặng ơn sâu

Gian truân vùi lấp, bể dâu đổi dời

Quan hoài day dứt một đời

Bạc đầu ngoảnh lại, trông vời non cao.

 

Phần 1:

Mộc Châu hoa trắng rừng xanh, qua khỏi mùa đông sương lạnh chập chùng lại đến mùa xuân hoa nở rợp trời.

Từ gò đất cao nhất trong khu vườn thênh thang sắc trắng của Mộc Hương sơn trang phóng tầm mắt ra bốn phương tám hướng, đâu đâu cũng là sườn đồi nhuộm màu trắng toát bởi thảm hoa cải li ti; ngay cả nơi bìa rừng phía chân trời tít xa, mấy cành lê mộc mạc cũng đang nở từng cụm hoa trắng tinh khiết. Sắc hoa trộn vào sắc mây, màu trời quyện với màu rừng, khung cảnh mùa xuân Mộc Châu có đôi lúc khiến người ta ngỡ ngàng đến sửng sốt, không thể phân biệt được đâu là trời đâu là đất, đâu là thực đâu là mộng. Xứ sở cao nguyên lạ lẫm này, nếu dùng mấy chữ “tiên cảnh nơi hạ giới”, e rằng không phản ánh được chất mộc mạc thanh bình như hơi thở hiền hòa của đất trời; nhưng nếu phải dùng cụm từ nào khác để đặc tả, lại e rằng không xứng tầm với vẻ đẹp thoát tục của nó.

Với Ngô Bình, Mộc Châu là đất lập nghiệp của cụ cố nội, nơi có Mộc Hương sơn trang là nhà; bên kia dòng Đà giang, vượt lên cao hơn cả mấy tầng mây trắng, là vùng núi Hoàng Liên Sơn hiểm trở hùng vĩ, nơi cư ngụ của tộc người Khau Phạ mà chàng đang mang trong mình nửa dòng máu, là quê ngoại của chàng, đã từng là nhà của mẹ chàng. Sau gần hai mươi năm xa cách, trải qua bao biến cố, tưởng chừng có lúc đã quên hẳn mình đến từ đâu, cuối cùng cũng có ngày chàng được trở về đạo Lâm Tây, về Mộc Châu mờ nhạt trong tiềm thức mộng mị. Trớ trêu thay, sau mười năm thơ ấu sự thật bị vùi lấp và hai mươi năm sinh sống ở vùng đồng bằng, mọi vết tích vùng cao trong chàng đã bị xóa mờ gần hết, khiến nơi lẽ ra phải là nhà lại trở nên hoàn toàn xa lạ. Vẻ đẹp đến choáng ngợp mà chàng đang nhìn thấy kia cũng chỉ gieo vào lòng chàng thứ cảm xúc ngưỡng mộ của người xứ lạ, hoàn toàn không phải loại xúc cảm quen thuộc đến yên bình, tự nhiên đến hiển nhiên của người bản xứ. Mâu thuẫn làm nảy sinh chạnh lòng, tâm hồn thảng thốt trước vẻ đẹp đất trời cũng vì thế mà thấm đượm nỗi niềm u hoài lạc lõng của kẻ không nhận ra quê hương, dù đôi chân đang đặt trên chính mảnh đất thân tình ấy.

Ngô Bình hít một hơi thật sâu, dồn căng vào lồng ngực bầu không khí mát lành thanh khiết quyện đầy hương thơm hoa Mộc Hương. Rồi chàng từ từ khép mắt lại, cố ép mình hồi tưởng giấc mơ hư ảo thuở bé, giấc mơ về một cô bé gọi tên chàng giữa vùng đất trắng nửa lạ nửa quen; cố ép mình đón nhận thứ cảm giác thân thuộc mà chàng nên có, xứng đáng được có với nơi này. Sau cùng, bốn chữ “Mộc Hương sơn trang” dẫu đã in hằn một vệt sâu đậm trong tâm thức, vẫn không đủ để bản thân chàng có thể tự tạo lấy loại cảm giác thân thuộc như đang ở nhà. Mọi nỗ lực hoàn toàn thất bại, và đây đã là lần thứ bảy trong suốt ba tháng, từ cuối tháng mười một năm ngoái đến đầu tháng ba năm nay, kể từ ngày chàng đặt chân về xứ lạnh Mộc Châu.

–       Sao thế? Vẫn chưa quen với nơi này à?

Tông giọng nhẹ hẫng của Xuân Lan bất ngờ kéo Ngô Bình trượt khỏi vũng sâu hỗn độn nơi tâm thức đầy mâu thuẫn. Chàng giật mình quay lại, thấy nàng đang đứng ngay phía sau nhưng không nhìn chàng mà lại bâng quơ chú mục vào một nhành mộc hương trắng gần đấy. Chàng thở nhẹ một hơi, gượng cười méo mó:

–       Quen thì quen, nhưng lạ vẫn lạ! Tôi thấy nhớ đồng bằng…

Xuân Lan bật cười ròn rã, nói:

–       Trong lòng cậu đã không có nơi này, muốn cưỡng cầu cũng vô ích thôi. Từ dạo về đến Mộc Hương sơn trang, tôi thấy cậu chẳng màng đi quan sát xung quanh, suốt ngày cứ lảng vảng hết ở đại sảnh lại chui tọt vào phòng. Cậu còn nhớ đường đi từ cổng vào trang viện, tôi cũng phục lắm rồi. Rốt cuộc cậu sợ điều gì mà mãi không chịu đón nhận nơi này vậy?

Ngô Bình hốt nhiên cảm thấy hụt hẫng, lời Xuân Lan quả không sai. Hóa ra với nơi này, chàng không chỉ thấy bỡ ngỡ mà còn thấy sợ, một nỗi sợ hãi vô hình vô dạng. Lựa chọn phương án không đáp lời Xuân Lan, cố né tránh nhắc lại vụ thảm sát mà người của Linh Cung đã gây ra cho gia đình mình, chàng bẻ ngoặt câu chuyện sang một hướng khác dễ thở hơn:

–       Hồi còn nhỏ, chị sống ở đây hai năm, có còn nhớ cha mẹ tôi trông như thế nào không? Họ thường làm gì, nói gì với nhau? Còn tên của tôi nữa, tại sao lại đặt như vậy, chị có biết không?

Xuân Lan chếch miệng cười, mắt mơ hồ dần dần rời khỏi cụm hoa mộc hương, chuyển đến mảng kí ức xưa cũ. Nàng hạ giọng, thanh âm nửa ấm áp, nửa hờn trách:

–       Cha cậu ôn nhu nho nhã, văn võ song toàn, tuy tài trí hơn người nhưng lại hay do dự trì hoãn. Mẹ cậu xuất thân quý tộc, cốt cách thanh cao, tuy dịu dàng hiền thục nhưng đôi lúc quá nhu nhược cam chịu. Biết bao nhiêu đức tính tốt đẹp của họ, tại sao cậu không giống, lại đi giống một nửa tính do dự của cha và một nửa tính cam chịu của mẹ? Tôi hỏi thì cậu không đáp, cố ý nói lảng đi là xong chuyện sao?

Bản thân muốn né tránh, người khác lại cứ muốn bàn đến, nhưng suy cho cùng, vẫn là Xuân Lan nói đúng, Ngô Bình thôi không hỏi lan man nữa, cố ép mình nói thẳng vào chủ đề ám ảnh kia:

–       Tôi không có một chút oán hận với người của Linh Cung, chẳng phải chỉ vì chị và Yến Lan, mà còn vì Bích phu nhân, Dung phu nhân, Vy phu nhân, còn vì nơi ấy là một phần tuổi thơ tôi. Có thể họ dối gạt tôi, họ giết hại cha mẹ tôi, nhưng giả như cả đời tôi mãi mãi không biết đến, thì họ vẫn đối với tôi như thế. Tôi không làm sao hận họ được, lại càng không có một chút kí ức gì về cha mẹ, bản thân cảm thấy hoàn toàn không xứng đáng với tổ tông Ngô gia, không xứng đáng với Mộc Hương sơn trang, tôi còn mặt mũi nào mà xem nơi này là nhà nữa?

Nụ cười hờ hững nơi khóe môi Xuân Lan vụt theo gió núi bay đi, để lại trên khuôn mặt nàng nét lạnh lùng sầu thảm. Nàng lặng lẽ bước đến trước mặt Ngô Bình, ánh mắt cuộn đầy day dứt cắm thẳng vào mắt chàng trong một khoảnh khắc tưởng như kéo dài trăm năm, rồi bất ngờ, nàng vung tay tát thật mạnh vào mặt chàng, gằn giọng:

–       Hèn nhát!

Cú tát thứ hai giáng tiếp vào bên mặt còn lại Ngô Bình kèm theo hai tiếng chát chúa từ miệng Xuân Lan:

–       Ngu muội!

Mắt Ngô Bình hoa lên, đầu ong ong khó chịu. Hai cú tát như trời giáng ấy, chàng dẫu muốn tránh cũng không thể tránh; suy cho cùng, Xuân Lan với chàng vẫn là một người chị, hoàn toàn có tư cách giáo huấn; huống chi, nàng ta ra tay quá bất ngờ, chàng chỉ kịp nhận thấy tay nàng vung lên thì mặt đã bị đánh cho sưng vù cả rồi. Hai bên má dù nóng bừng bừng, chàng vẫn đứng bất động, tay xuôi thẳng, cúi đầu nhìn xuống. Xuân Lan gằn giọng nói tiếp, chất gay gắt bị nén lại tối đa, chỉ còn vài phần thoát ra thành giọng:

–       Năm xưa chúng ta không màng thủ đoạn, từ bịa chuyện gạt người đến giở trò uy hiếp, Đinh cô cô lại còn mất mạng ở Linh Cung, khó khăn lắm mới trả lại được thân phận cho ngươi, đâu phải để hôm nay nghe ngươi nói ra những lời ủy mị đến thiển cận ấy!  Ta không bảo ngươi thù oán Linh Cung, cha mẹ ngươi khi qua đời e rằng cũng chẳng có lấy một chút oán hận, ngươi việc gì cứ phải ép mình đi làm cái chuyện vô nghĩa ấy? Oán thù Linh Cung thì không có lỗi với Mộc Hương sơn trang sao? Từ năm này sang năm khác chấp mê bất ngộ, bám lấy cái cớ không có kí ức, không có oán hận để chối bỏ hiện thực thì không có lỗi với tổ tông Ngô gia sao? Ngươi nhìn lại mình đi, hậu duệ duy nhất của Ngô gia lẽ nào lại bạc nhược như ngươi? Hậu viện của sơn trang thì không dám vào, phần mộ cha mẹ cũng không dám đối diện, bái lạy vài cái trước bàn thờ tổ tông là xong sao? Bản thân ngươi đã không chấp nhận thực tế, đừng đứng đây mơ hão về thứ cảm xúc thân thuộc với vùng đất này nữa! Mộc Hương sơn trang chỉ trở thành nhà khi nào bản thân ngươi chịu đón nhận thôi!

Nàng nói đến đây, thấy Ngô Bình vẫn cúi đầu lẳng lặng, bèn nổi giận vung tay toan tát thêm vài cái nữa. Nhưng rốt cuộc vẫn là xót ruột, vẫn là đau lòng, vẫn là thương cảm, nàng nhận ra mình đôi lúc lý trí đến khô khan, giờ đánh mắng cho thỏa rồi lại không nỡ tiếp tục nói những lời thật lòng dễ gây thương tổn; nàng đành thở dài quay gót, trút hết bực tức lẫn xót xa vào niềm hi vọng rằng, từ từ Ngô Bình sẽ tự tìm được lối thoát.

Xuân Lan đi rồi, Ngô Bình vẫn đứng lặng thinh. Gió xanh phơn phớt đầu xuân nhanh chóng xoa dịu cảm giác nóng hừng hực nơi gò má, đồng thời cũng cuốn đi nốt những suy niệm phức tạp, để lại trong tâm thức gần như trống rỗng của chàng duy nhất một câu hỏi: rốt cuộc, chàng đang làm gì vậy?

Một lúc thật lâu sau đó, khi mặt trời đã chếch lên cao hơn quả núi phía đông, có một bàn tay khẽ khàng đặt lên vai chàng, tông giọng trong vắt như tiếng chuông gió ống trúc chùa Quỳnh Lâm:

–       Tôi nghe anh Tòng Phương nói mộ phần của cha mẹ anh nằm tại khoảng đất sau khu trang viện, hay là chúng ta đến đó đi!

Lời ấy khiến Ngô Bình không nén được chút thất vọng, đồng thời lại cảm thấy được an ủi phần nào. Chàng đứng đây từ lâu rồi, nàng vừa đến gần đã có thể nói thẳng vào trọng tâm, hẳn nhiên đã ở xa quan sát từ trước, dựa vào hai cái tát của Xuân Lan mà đoán ra nội tình bên trong. Như Như tuy không thông minh bằng Xuân Lan, nhưng lại có thể thấu hiểu chàng hơn Xuân Lan, hoặc là, chính bản thân chàng đã tạo điều kiện để nàng hiểu được chàng.

Lại là Xuân Lan nói đúng, muốn cảm thấy thân thuộc với ai hoặc điều gì, trước hết phải chủ động đón nhận trước đã.

Ngô Bình ngẩng mặt nhìn, ánh mắt tha thiết xoáy sâu vào mắt Như Như khiến nàng không khỏi sắc mặt ửng đỏ. Sau cùng, chàng mạnh dạn nắm lấy tay nàng, dắt nàng cùng đi trên dãy hành lang xoắn ốc ngập nắng, thoăn thoắt theo lối hướng đến bãi đất phía sau khu trang viện. Chàng có thể cảm nhận bàn tay nhỏ bé ấm áp của nàng khẽ run lên trong lòng bàn tay mình, song, chỉ âm thầm siết lấy, không quá chặt để trấn áp hết thảy mọi dao động từ tay nàng, cũng không quá lỏng để nàng có thể bất chợt ngại ngùng rụt tay về.

Hai người cứ thế bước đi, một kiên quyết nắm chặt tay, một bối rối đến đỏ mặt, sau một chốc lâng lâng kì quặc, bãi đất trống với vài mộ phần đơn sơ đã ở ngay trước mắt.

Khu mộ phần tộc họ Ngô, lẽ ra Ngô Bình và Như Như đã có thể thong dong rời hành lang bước hẳn vào, chỉ hiềm, ngay trước một nấm mộ nhỏ tương đối mới hơn những nấm mộ khác_mà Ngô Bình đoán có lẽ là mộ của cha mình_lại có một thiếu nữ thất thần quỳ ở đấy, khiến hai người sững sờ dừng bước ngay tại bậc thang dẫn xuống khoảng đất. Nàng ta thinh lặng bất động, cặp mắt nhắm nghiền, thần thái u uất, trông từ xa hệt như một bức tượng ai đó đem đặt trước nấm mộ, dải áo lục phất phơ theo gió là dấu hiệu duy nhất cho thấy nàng ta rõ ràng không phải là tượng đá vô ưu vô lo.

Trong lúc Ngô Bình và Như Như vẫn còn bất ngờ, thiếu nữ nọ đột ngột dập đầu ba cái rồi chậm rãi đứng dậy, chần chừ một lúc trước khi quay người rời khỏi. Như Như chẳng muốn giáp mặt nàng ta, lập tức kéo Ngô Bình nhảy khỏi hành lang, nép hẳn vào một bụi cây gần đó, chờ cho nàng ta khuất dáng sau khúc ngoặt hành lang phía xa rồi mới thở nhẹ vạch lá bước ra ngoài.

Từ dạo Yến Lan vì cứu nàng mà giết chết bọn Trương Tuấn ở châu Ái, nàng sau lời cảm ơn gượng gạo cũng chẳng mấy khi nói chuyện với nàng ta. Nàng ta vốn không thích nàng, nay ở chung một chỗ, lại là nhà của Ngô Bình, nàng hiển nhiên không muốn nảy sinh phiền phức; mà tình cảm Ngô Bình dành cho nàng mỗi ngày một rõ ràng nồng nhiệt, không muốn Yến Lan bị tổn thương, chi bằng cứ tránh mặt nàng ta thì hơn.

Ngô Bình vốn đã đủ chuyện để nghĩ, cũng chẳng mấy bận tâm đến ý tứ nhi nữ, huống hồ chàng vẫn còn bất mãn về cái chết của Trương Tuấn, đã tỏ ra hoàn toàn lạnh nhạt khách sáo với Yến Lan; đôi lúc chàng tự thấy mình tàn nhẫn đến khó hiểu, nhưng chung quy vẫn là cố chấp tránh mặt; nay bắt gặp Yến Lan quỳ sụp trước phần mộ của cha mình, chàng không khỏi mềm lòng day dứt.

Nàng ta rời khỏi rồi, Ngô Bình theo Như Như tiếp tục bước vào khu phần mộ, tâm trạng chất chồng tâm trạng, bàn tay chàng bất giác nới lỏng. Như Như nhận thấy, chỉ đơn giản ngoảnh sang chau mày dò xét, nhưng không rút tay về mà tiếp tục cùng chàng bước đi trong thinh lặng.

–       Chị Xuân Lan, tôi đã đến viếng mộ cha mẹ rồi…

Chàng vừa dợm chân đuổi theo níu Xuân Lan lại, vừa nói những lời mà tự bản thân mình cũng chẳng rõ để làm gì.

Suốt bữa tối ngày hôm ấy, không khí chủ đạo bao trùm bàn ăn vẫn là loãng như nước lã! Năm người ngồi dùng bữa cùng nhau, nhưng chẳng ai nói với ai lời nào, cứ lẳng lặng cố gắng nuốt trôi rồi tự giác rời khỏi, đến cả lời chào mang tính tượng trưng cũng chỉ có mỗi Tòng Phương chịu nói, xem chừng chỉ càng khiến cho không khí bàn ăn thêm phần quái dị và lạc lõng. Yến Lan là người rời khỏi trước tiên, Tòng Phương vì không muốn chọc giận Xuân Lan_vốn đã chẳng mấy dễ chịu từ lúc đi thăm vườn trở về_cũng vội vàng nối gót Yến Lan; đến khi Xuân Lan cũng mất kiên nhẫn mà đứng bật dậy, Như Như bèn chớp thời cơ, thúc nhẹ một cái vào tay Ngô Bình, ra hiệu cho chàng chạy theo Xuân Lan. Chàng đang khi lòng dạ rối như tơ vò, nhận được tín hiệu của Như Như thì liền làm theo trong vô thức, đến khi bắt kịp Xuân Lan ngoài hành lang rồi mới luống cuống không biết nói gì, đành đem ngay việc viếng mộ ra để giữ chân nàng. Quả nhiên, thái độ Xuân Lan chuyển biến tức thì, nàng dừng bước quay đầu nhìn, cặp chân mày chau lại chờ đợi.

Ngô Bình trố mắt lặng thinh, đầu không ngừng cuống cuồng tìm chuyện để nói, sau cùng cũng đầu hàng im bặt, tự trách bản thân thiếu linh hoạt nhạy bén.

Xuân Lan chẳng những không nổi giận, phản ứng ngây ngô ấy của Ngô Bình còn khiến nàng nhớ lại lúc hai người còn nhỏ. Nàng bèn thôi hậm hực, nét mặt dịu xuống vẻ khoan hòa, hạ giọng:

–       Vậy khi nào thì cậu vào hậu viện? Ngày ấy ông nội và cha cậu vẫn hay vào đấy nghiên cứu võ học Ngô gia, người ngoài không được tự ý đặt chân vào. Trước đây ta có hỏi, Tòng Phương bảo, từ ngày tìm ra cậu ở Linh Cung đến giờ, hậu viện bị bỏ hoang, bản thân hắn tuy tạm gánh vị trí trang chủ, vẫn không đủ tư cách bước vào, chỉ e mấy năm rồi bụi đóng mạng giăng, hỏng hóc không ít chỗ. Cậu nên chấn chỉnh lại rồi vào đó càng sớm càng tốt, đừng chần chừ thêm kẻo về sau phải hối hận…

Ngô Bình thở ra nhẹ nhõm, lồng ngực xẹp xuống thanh thản, đoạn, chàng bâng khuâng đáp:

–       Vâng! Ngày mai tôi sẽ vào!

Đến đây, Xuân Lan đột ngột chuyển đề tài, không nói chuyện hậu viện với mộ phần nữa, khiến Ngô Bình không khỏi cảm thấy khó hiểu. Chàng nghe một hồi, mới nhận ra nàng đang trả lời những thắc mắc của mình lúc sáng:

–       Ở Khau Phạ, mẹ cậu có một anh trai cùng cha khác mẹ. Người bác ấy tên là Hà Thanh Bình, con của Thần Nữ_vợ chính của cha cậu; còn mẹ cậu là con của vợ lẽ, gọi là Ý Thị. Hai người tuy không cùng một mẹ sinh ra, nhưng từ nhỏ đã hết mực yêu thương nhau. Về sau, bác ấy hộ tống mẹ cậu xuống núi gả về Hoa Lư; vì tin đồn Man Thiện Bí Kíp mà bị liên lụy, cùng thuộc cấp mất mạng dưới tay bọn Trần Gia Bang. Mẹ cậu tuy thoát kiếp nạn ấy, theo Nhật Lão đến Mộc Hương sơn trang, nhưng không sao nguôi ngoai về cái chết của bác cậu. Đến khi sinh cậu ra, vì nghĩ bản thân nợ ông ấy quá nhiều, nên mới xin cha cậu đặt tên cậu là Bình, theo tên của ông ấy, với ước nguyện cuộc đời cậu sẽ được thanh bình yên ả. Người Việt chúng ta xưa nay có lệ tránh đặt tên trẻ con theo tên bậc trưởng bối, với trường hợp của ông bác ấy của cậu còn là tránh vận xui nữa, nhưng mẹ cậu là người Khau Phạ, phong tục không như bọn ta, có lẽ không muốn cậu sau này quên hẳn người bác ấy, mới bất chấp mà đặt cho cậu cái tên này. Ta xưa nay không câu nệ những tập tục rườm rà, sống phóng khoáng đã thành lối, nghĩ đi nghĩ lại thấy cách đặt tên ấy rất hay, nay cậu hỏi thì kể lại để cậu biết gốc tích của mình, mong cậu từ rày về sau đừng bao giờ cư xử cố chấp như mấy tháng qua nữa.

Ngô Bình lòng dạ nửa xốn xang, nửa lâng lâng; miệng toan mở ra rồi lại ngậm vào vì thực lòng không biết nói gì. Xuân Lan biết chàng đang còn bất ngờ và xúc động khi nghe nhắc lại những chuyện có liên quan đến họ hàng, đành cảm thông nhìn chàng một chốc, sau cùng cũng quay lưng bước đi. Được chừng chục bước, Ngô Bình đột nhiên nhớ đến chuyện của Yến Lan, bèn gọi giật lại:

–       Chị Xuân Lan này, khoan đã…

Xuân Lan thoăn thoắt quay lại, mặt không giấu vẻ thắc mắc. Ngô Bình nói:

–       Lúc đến viếng mộ cha mẹ, tôi thấy Yến Lan đã ở đấy từ trước, quỳ sụp một lúc thật lâu rồi dập đầu ba cái trước phần mộ của cha tôi. Mấy tháng nay tôi hành xử bất ổn, với em ấy có chút thái độ lạnh lùng, giờ tỉnh táo lại rồi lại thấy áy náy. Chị ở cùng Yến Lan, hay là nói giúp tôi vài lời an ủi em ấy…

Xuân Lan bỗng dưng chau mày lo ngại, vội vàng ngắt lời:

–       Cậu nói Yến Lan đến phần mộ của cha cậu bái lạy sao?

Ngô Bình chuyển giọng băn khoăn:

–       Vâng! Mới chiều nay thôi. Có chuyện gì không ổn sao?

Xuân Lan im lặng không đáp, mắt lóe lên vài tia nghi kị. Rất nhanh sau đó, trước khi Ngô Bình kịp nhận thấy dấu hiệu khác lạ, nàng đã trở về với bộ dạng điềm tĩnh:

–       Người làm Yến Lan buồn là cậu, không phải ta. Cậu muốn thì tự mà đi nói chuyện với nó, ta chẳng can thiệp vào đâu!

Đoạn, nàng quay lưng tiếp bước, mặc kệ Ngô Bình phía sau vẫn còn chưa hết bất ngờ trước kết thúc quá chóng vánh của cuộc nói chuyện.

Đêm xuân, khí trời se lạnh, với những kẻ quen sống ở vùng đồng bằng như Ngô Bình, còn có thể nói là rất lạnh. Đợt rét tháng giêng vừa rồi đã dứt hẳn, nhưng không khí vùng cao vẫn giữ nguyên cái vị lành lạnh thường trực. Ngô Bình lần đầu tiên trong đời trải qua trọn vẹn một mùa đông ở miền núi, khi đợt rét cuối năm tràn về, chàng chỉ còn biết căng mình chịu lạnh, trên người trùm đến bốn năm lớp áo quần, tối đến vùi sâu vào lớp chăn bông dày, vẫn cảm thấy cái lạnh uốn theo từng nếp vải mà tràn vào gặm nhấm da thịt. Đến tháng ba, tiết trời có vẻ dễ chịu hơn, chàng đã có thể cởi bớt hai lớp áo, giữa trưa thi thoảng còn nhỏ được vài giọt mồ hôi, nhưng chưa kịp tận hưởng chút khoảnh khắc ấm áp hiếm hoi trong ngày, vừa tranh thủ tắm gội xong thì trời chiều lại quay về với cái lạnh lẽo đặc trưng. Ở đồng bằng thi thoảng cũng có rét, rét đến cắt da cắt thịt, nhưng so với vùng Mộc Châu lại chẳng bằng một phần năm.

Lúc chàng mới đến, mặt mày tái xanh vì lạnh, Tòng Phương trông thấy, bèn cười ngất mà bảo rằng, ở bên kia dòng Đà Giang, trên dãy Hoàng Liên Sơn ngập mây cao ngút, thỉnh thoảng còn có cả thứ hạt khi xôm xốp khi đóng mảng cứng, lạnh toát trong suốt, kết thành từ nước, bám đầy nhành cây, người phương Bắc thường gọi là băng tuyết. Ngày trước, chàng từng nghe thiền sư Vạn Hạnh nhắc đến một thứ tương tự, lấp loáng trắng muốt, lạnh toát tỏa khói, đóng dày một mảng kéo dài đến hơn nửa năm trên những đỉnh núi cao ở phương Bắc, có lẽ cũng cùng một dạng với thứ nước kết ở vùng Hoàng Liên Sơn. Tiết trời lạnh đến nỗi nước cũng phải đông đặc thành đá, chàng chỉ mới nghĩ đến đã nổi cả da gà, bèn thầm nhủ vùng Mộc Châu này cũng còn ấm áp chán. Tuy vậy, nhiều đêm liền, chàng lại mơ thấy quang cảnh lấp loáng sáng choang đá tuyết kì dị kia, mới hay trong lòng từ lúc nào đã mong mỏi một lần được trải qua loại khí hậu khắc nghiệt ấy.

Ngô Bình cuộn mình trong chăn, lò sưởi đốt suốt đêm không tắt dù đã vào đầu tháng ba. Chàng chập chờn mộng mị, nửa tỉnh nửa mê; chẳng phải kiểu lạnh nửa vời này khiến chàng mơ màng mệt mỏi, mà là do tâm tư nhiều năm đã quá quen với cảm giác bất an nên không sao ngủ vùi một mạch đến sáng được. Đến quá nửa đêm, chàng bắt đầu loáng thoáng nghe thấy bên tai  tiếng lầm rầm quen thuộc ngày nào của sư Vạn Hạnh, quang cảnh chùa Quỳnh Lâm với nắng vàng hắt vào hàng hiên gian thờ bất giác hiện ra rõ mồn một, đến mức chàng ngay lập tức nhận ra mình đang mơ, dù hai mắt vẫn cứ nhắm nghiền chập choạng:

“Phật Giáo truyền vào Bắc quốc trước chúng ta rất lâu, cách thức tín ngưỡng của họ cũng có vài phần khác biệt. Chúng ta ở đây thường xây chùa ngay trong làng, thắng cảnh tuy nhiều nhưng không chuộng làm thánh địa, dân chúng muốn thắp hương lễ Phật thì đến chùa làng, hiếm khi cùng nhau đến những ngôi chùa linh thiêng khác. Không như Bắc quốc, họ từ thời Đường đã có bốn ngọn núi cao làm thánh địa, tương truyền được bảo trợ bởi bốn vị Bồ Tát(1): núi Ngũ Đài có Văn Thù Bồ Tát, núi Nga Mi có Phổ Hiền Bồ Tát, núi Cửu Hoa có Địa Tạng Bồ Tát, núi Phổ Đà có Quan Thế Âm Bồ Tát. Thiện nam tín nữ vẫn hay đến những nơi ấy nghe thuyết pháp, thắp hương lễ Phật; bọn danh sĩ phong lưu cũng thường xuyên lui tới, nhưng không phải vì mộ đạo, mà là vì mộ cảnh. Núi Ngũ Đài và núi Nga Mi quanh năm mây ngập, thu đông tuyết phủ trắng trời. Núi Cửu Hoa bốn mùa tươi đẹp; hoa cỏ thi nhau đua sắc. Núi Phổ Đà phong cảnh u nhã, biển xanh rợp tận chân mây…”

Sư Vạn Hạnh ngày ấy còn nói rất nhiều điều về Tứ đại linh sơn ở Bắc quốc, chàng lại chẳng nhớ được bao nhiêu, chỉ ấn tượng với mỗi quang cảnh “tuyết phủ trắng trời” được nhắc đến ở núi Nga Mi, giấc mộng cũng vì thế mà dần dần nhuốm màu lạnh lẽo tráng lệ của gió tuyết mênh mang.  

Hốt nhiên, quang cảnh xung quanh mờ nhạt dần, nắng tắt, chùa tan, chỉ còn trơ lại vòm cây trong đêm không trăng mờ mịt bóng sao. Nhân ảnh Sư Vạn Hạnh chớp nhoáng chuyển thành một ông lão trên dưới bảy chục tuổi, tóc bạc trắng một màu, mắt sáng quắc tinh anh, tay cầm thanh đao hình dáng đơn giản, bật cười sảng khoái dưới vòm cây. Chính là Nhật Lão!

Đến đây, Ngô Bình giật mình choàng tỉnh, vô thức bật dậy tung hết cả mớ chăn dày, hàn khí lập tức thốc vào khiến chàng không khỏi rùng mình ớn lạnh. Ngoài hành lang bóng đuốc hiu hắt, phía trong lò lửa bén tàn âm ỉ cháy, Ngô Bình nặng đầu loạn trí, chẳng còn hay biết đã sang canh mấy rồi. Giấc mơ ban nãy, tuy có thể khiến chàng giật mình tỉnh hẳn, vẫn chỉ là một giấc mơ cũ đầy trăn trở.

Quay đi quay lại, Nhật Lão mất tích đã hơn hai năm rưỡi.

Ngô Bình chống khuỷu tay lên gối, ôm đầu thở trút ra một hơi rồi lặng thinh ngồi suy tưởng. Trong bóng đêm, tiếng lửa tí tách liếm vào củi và hơi thở dần trở nên đều đặn của chàng quyện lại làm một, vang lên tạo thành giai điệu kỳ lạ. Một lúc thật lâu sau đó, chàng cũng quyết định dém chăn nằm trở xuống. Lưng vừa tựa vào lớp đệm lạnh, chưa kịp trở mình vùi mặt vào chăn, chàng đã phải một phen giật mình.

Rõ ràng, có một bóng đen vừa lao vụt qua ngay trước dãy cửa gỗ khoét hoa văn, xuyên qua từng ô chạm trổ trên cánh cửa đổ vào nền phòng nửa sáng sửa tối.

Chàng dù đầu óc mới khỏi cơn mụ mị, vẫn còn thừa tỉnh táo để khẳng định chắc nịch rằng mình không nhìn lầm, bèn vội vàng bật dậy xỏ giày, tay vớ bừa lấy chiếc áo khoác vắt hờ hững trên bàn rồi mở cửa xông ra. Ngoài hành lang, bốn bề vắng lặng như thách thức đầu óc chàng. Chàng ngây người nhìn ngó dáo dác, chân vô thức bước đi về một hướng bất định, cứ như thế đi mãi trong đêm, đến khi một cơn gió lạnh cuốn thốc vào mặt cũng là lúc nhận ra bản thân đã lạc lối trên dãy hành lang xoắn ốc ngoằn nghèo của Mộc Hương sơn trang. Sau khoảnh khắc bối rối đơn độc, chàng không nén được, đành bật cười thừa nhận như một kẻ cùng đường quẫn trí chỉ còn biết đối thoại với đêm đen:

–       Đây là cái giá phải trả cho suốt ba tháng chưa từng một lần đi trọn khu trang viện này sao?

Lẽ ra đáp lại phải là im lặng, vì chàng đã gần như tin rằng mình bị mụ mị đầu óc mất rồi. Thế nhưng, từ khúc ngoặt bên trái, cách nơi chàng đứng một khoảng khá xa, đủ để cảm nhận độ hun hút của dãy hành lang này, có một bóng người chậm rãi lộ diện, tần ngần đứng nhìn chàng trong khoảnh khắc trước khi đổi sang thoăn thoắt tiến lại gần, dải áo nhạt màu tung tẩy nhịp nhàng theo từng bước chân dưới bóng đuốc sáng choang của cây đuốc vô tình được gắn trên cột gỗ gần đó. Chẳng cần người nọ tiến đến gần, dáng điệu của nàng ta cũng đủ để chàng nhận ra ngay tức khắc, nàng là Yến Lan.

Chú thích:

(1)  Núi Ngũ Đài thuộc tỉnh Sơn Tây, núi Nga Mi thuộc tỉnh Tứ Xuyên, núi Cửu Hoa thuộc tỉnh An Huy, núi Phổ Đà thuộc tỉnh Triết Giang, là bốn ngọn núi linh thiêng ở Trung Quốc, gọi là “Tứ đại Phật Giáo danh sơn”, lần lượt được bảo tợ bởi Văn Thù Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Địa Tạng Bồ Tát và Quan Thế Âm Bồ Tát.

Hình đại diện của Không hiểu

Tác giả: Mộc Hân

"Phiến đá người thợ xây loại bỏ, sẽ trở nên đá tảng góc tường." "The stone that the builders rejected has become the cornerstone" Kinh Thánh Tân Ước - The New Testament - Matthew 21, 42

10 bình luận về “Chương 32: Sư đồ (phần 1)”

  1. Đọc phần này khiến em thật sự… thất vọng ss ạ:( Có lẽ là em chưa chính thức tuyên bố với ss: thật ra em là fan của Bình-Lan, Như-Đĩnh:(( Cho nên cảnh Xuân Lan tát Bình, hung dữ với Bình, nạt nộ, lạnh nhạt (đủ thứ)…. khiến em thiệt là đau lòng, huhu….Fic của ss cho dù có happy ending với Như-Bình thì với em cũng chẳng khác nào sad ending, hic hic…
    Biết đến bao giờ Như mới gặp lại Đĩnh để trả cho xong mọi ân oán???:((
    Em rất thích những lời tâm sự của ss về cảm xúc khi viết fic ạ:) Thật ra em chỉ là 1 tác giả nửa vời, đầy trăn trở. Nhiều lúc bản thân em cũng chả biết mình viết để làm gì khi ít ai hiểu đc tâm huyết của mình, hoặc đơn giản chỉ xem nó như trò giải trí. Nhưng khi ss tâm sự như vậy, em hiểu rằng cho dù thế nào đi nữa, cái quan trọng nhất đối với 1 tác giả vẫn là đam mê, là đc sống trong cái thế giới tuyệt vời do chính mình tạo ra, bất kể ai cũng k0 có quyền xâm phạm.
    Lần trước em có dịp ghé ngang trang của ss trên Yume, thấy bên đó quả thật rất xôm tụ. Bù lại bên wp vắng vẻ nhưng lại ít bị ném đá (^^”), nên em thích trang nhà wp của ss hơn;)
    Biết ss nuôi ý tưởng về fic suốt 6 năm mà em thấy rất là ngưỡng mộ;) Em hi vọng ss sớm hoàn thành Lục thập trong tháng 10 & sẽ nhanh chóng cho ra đời nhiều fic kiếm hiệp dã sử hoành tráng nữa:*

    1. Nếu em đã tuyên bố chính thức thì chị cũng bật mí chút đỉnh ;)). Chị không nghĩ Lục Thập sẽ có happy ending đâu, ít nhất là với chị (chị là fan anh Đĩnh :”>). Chị nghĩ, vui hay buồn, tốt hay xấu, phần lớn tùy thuộc vào cách nhìn, mà mỗi người có một cách nhìn khác nhau, như với chị chẳng hạn, thì fic này không happy ending được, nhưng có thể với người khác, nó sẽ là happy ending. Thế nên, kết cục ra sao, đành phải chờ nữa. Thêm vào đó, vì chị chưa viết xong, nên nó sẽ còn thay đổi tùy vào tâm trạng và cách suy nghĩ của chị có thay đổi hay không. 🙂
      Còn về cái trang yume, chị thấy nó bon chen quá, mà tính chị thì ko thích ăn gạch, nên mới quay về loanh quanh trong wp cho đời yên ổn. Chị ko để tài khoản ấy “chết” luôn là vì còn vài người vẫn hay đọc fic bên đấy thôi :D.
      Chúc em tuần mới vui vẻ! 🙂

  2. ss nghĩ xem em có mâu thuẫn k0. Mặc dù là k0 thích Bình-Như kết thúc có hậu thật, nhưng nghe ss bật mí như vậy em cảm thấy… hơi buồn:( Nếu Lan k0 thể yêu Bình, nếu Đĩnh k0 thể cướp lại Như thì em cũng k0 muốn giữa Bình & Như sẽ chia lìa hay bị ngăn trở bởi cái chết:(( Hi vọng đến lúc ss viết mấy chương cuối thì trời xanh nắng đẹp, mưa thuận gió hoà để fic cũng được tốt lây;) Đĩnh của ss khiến em bị ám ảnh, mong sao khi xuất hiện trở lại thì Đĩnh vẫn giữ vững phong độ như xưa:))

    1. ko mâu thuẫn đâu em, vì kết thúc có hậu khiến người ta cảm thấy nhẹ lòng. Còn về phần chị, chị nghĩ, đôi khi để có hậu thì sẽ không trọn vẹn, mà để trọn vẹn thì sẽ không có hậu. Vậy nên chị sẽ chọn phương án trung hòa, trọn vẹn một nửa, có hậu một nửa, và còn chừa đường cho người đọc tự quyết định kết cục nữa. 🙂
      Trời sẽ xanh và nắng sẽ đẹp, nhưng có mưa có gió một chút thì đời mới trọn vẹn. :”>

  3. Em rất thích cách miêu tả của ss, phong cảnh trở nên khoáng đạt, thơ mộng, 1 chút bâng khuâng dịu nhẹ, lại hơi se se lạnh
    cảm giác như lạc vào đà lạt sáng sớm mù sương vậy 🙂

    1. Em thật tinh ý! ;;) Chị chưa đến Mộc Châu lần nào cả, nhưng lại có duyên với Đà Lạt. Thế là, đành mượn chỗ này để tả chỗ kia :”> (dĩ nhiên là có sự trợ giúp của Google, chứ bưng y hệt từ Đà Lạt sang Mộc Châu thì nó ảo quá!!!).

    1. Cái gì muốn hiểu cũng phải có quá trình “lăn lộn” để tìm hiểu. ;)) chị lăn lộn cũng hơn chục năm nay rồi em, ;)) nên em (nếu cảm thấy hứng thú) thì cứ thử xem, biết đâu sẽ có kì tích 8->

      1. Thôi, em ngán lắm 😥
        đến giờ em chỉ thích Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo và Quang Trung thôi :-/
        ngược lại em rất thích sử trung từ thời tuỳ đến minh triều, nhất là thời ngũ đại thập quốc, trước đó thì cũng thích ngũ hồ loạn hoa
        nói chung em thích chiến loạn và việc đi xâm chiếm =.=
        biết là nên học tốt sử nhà nhưng mà vẫn bị sử trung cám dỗ 😥
        em viết fic thì cũng là hư cấu bối cảnh trung hoa cổ đại
        mà lạ là em ko thích đọc ngôn tình trung quốc, chỉ đi đọc fic việt =((

Gửi phản hồi cho inakolch Hủy trả lời